Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Văn hóa ứng xử Việt Nam hiện nay
PREMIUM
Số trang
416
Kích thước
21.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1632

Văn hóa ứng xử Việt Nam hiện nay

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

VĂN H Ó A ỨNG ẦỦ

VIỆT NAM HIỆN NAY

NGUYÊN THANH TUẤN

VĂN HÓA ỨNG ẴỬ

VIỆT NAM HIỆN NAY

NHÀ XUẤT BẢN TỪ ĐIỂn b á c h k h o a

&VIÊN VĂN HÓA

'Văn £óa M7y xử V iệi OGim Áiện naỳ

/d ờ ĩ n ó i ắ ầ ư

ưng xử c ó văn hóa trong cuốn sách nầỵ, được nâng lên

thành "văn hóa ứng xử".

Văn hóa ứng xử Việt Nam truyền thống cơ bản được

thể hiện ỏ nếp ứng xử khoan hòa thiên về hành động với tư

duy trực giác tổng họp. Nhưng cái hành động của ứng xử

không ra ngoài nguyên tắc trọng tình, trọng đức, trọng văn,

và cả trọng nữ, vói cái miệng hay cười và lòi nói khôn ngoan.

Nếp ứng xử khoan hòa thiên về hành động, thường chú

trọng đến cá c mối quan hệ đang vận động, nhất lồ cái trọng

tâm, trọng điểm, cấp bách, nên d ễ dẫn dến những cách ứng

xử linh hoạt. Hoàn cảnh càng câu thúc b ao nhiêu, năng lực

"ứng vạn biến" ỏ người Việt Nam càng tỏ rõ tính "quyển

biến" bấy nhiêu. Nhưng nếp ứng xử khoan hòa thường dược

biểu hiện ỏ lối ứng xử quân bình, và cũng không hiếm trường

hợp biến thái ỏ dạng mểm d ẻo , c ó khi tùy tiện.

Nguyên Thanh Tuấn

Cả cái Lốt và cái xấu ấy, bây giò được thừa nhận rộng

rãi. Khi người ta thừa nhện, thậm chí còn ch ế giễu cái xấu của

mình, không có nghĩa là ngưòi ta yếu.

Khi đốt nước đã sắp thoát khỏi Lỉnh trạng kém phát

triển, vồ trực tiếp bước vào xây dựng xã hội công nghiệp

th eo hướng hiện đại, thì những biến đổi trong ứng xử của

người Việt Nam, có lẽ, lại một lần nữa "quyền biến" như đã

"quyổn biến" khi đất nước chuyển sang kinh tế thị trường.

Văn hóa ứng xử ỏ V iệt Nam được bắt đầu từ phong

trào "Dời sống mói" d o Hổ Chí Minh phát dộng từ năm 1946.

Từ dó dến nay cái mói liên tục được làm cho mỏi nữa; trong

đó việc chuyển sang kinh tế thị trường và xây dựng xã hội

công nghiệp theo hướng hiện dại, lả những bước biến dổi

sâu sắc không chỉ trong văn hóa ứng xử.

Lồ cái xã hội trong cái cá nhân, văn hóa ứng xử, vì thế,

cũng b ao hàm nhiều vấn d ề, c ó thể nói lồ Lương dương vói

phạm vi mọi hoạt dộng, sinh hoạt của con người. Ẵin đ ộ c giả

vui lòng d ọ c cuốn sách nhỏ này, đ ể c ó thể c ó những chiêm

nghiệm b ổ ích cho bản thân.

Ẵin cảm ơn Viện Văn hóa vồ Nhà xuất bản Từ diển bách

khoa dã giúp Lôi được làm quen vối bạn d ọ c qua cuốn sách

nhỏ này.

TẢCGỈẨ

U ăiì Êóa ứnỹ xứ O iêi OGun £ iện na^

C I I I Í O M G I

Triết lý về văn hóa ứng xử Việt Nam

1. QUAN NIỆM vẩ VĂN HÓA ỨNG xử

Trong nền văn hóa Việt Nam cổ truyền không có khái

niệm văn hóa ứng xử, văn hóa lối sống. Trưóc năm 1945,

khái niệm phong hóa và phong tục được dùng rộng rãi

trong ngôn ngữ nói và viết. Khái niệm phong hóa, vừa

phản ánh sự bền vững của phong tục tập quán vừa chỉ rõ

mức độ thấm đưỢm nhuần nhụy, tinh tê của giáo dục và

văn hóa dân tộc trong muôn mặt đòi thường. Trong khi đó,

phong tục là lốì sốhg đã thành nền nếp, thành nếp sốhg và

tập quán lâu đòi. Trên cơ sở ấy, gia đình có gia phong, làng

xã có hương phong, quân đội có quân phong, đất nước có

quốc pháp và quốc hồn, quốc túy.

Cuộc cải biến phong hóa dân tộc ỏ xã hội ta được mở

đầu từ những năm 30 của thế kỷ XX và phát triển mạnh

mẽ thành phong trào đòi sông mới do Chủ tịch Hồ Chí

Minh phát động từ năm 1946. Từ đó việc tổ chức cuộc sông

lành mạnh, khoa học trong gia đình, ngoài thôn xóm, phô"

phường được mọi người quan tâm. Cách may mặc mới,

cách xưng hô mới, cách quan hệ mói, cách lao động mới,

cách ứng xử mới v.v... trở thành phong trào sâu rộng khắp

đô thị và nông thôn, cả tín ngưỡng, hội hè, đình đám, ma

chay, giỗ chạp cũng được xem xét lại theo tinh thần mói.

Từng bưốc một, đòi sốhg mới được hình thành trong quá

trình cải cách kinh tê - xã hội diễn ra toàn diện, sâu sắc,

đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống xâm

lược Pháp và Mỹ.

Đồi sống mới tạo ra nền văn hóa mới và con người mới

với đạo đức mới, chuẩn mực xã hội mói, khuôn mẫu ứng xử

mới. Lối sốhg mới hay văn hóa lối sốhg trở thành thuật

ngữ thông dụng trong cuộc sốhg hằng ngày và trong đòi

sốhg khoa học. Có thể nói khái niệm lôi sống hay văn hóa

lôi sống là tương đương với phạm trù văn hóa ứng xử, nhất

là khi tiếp cận lôi sống chỉ gồm các hoạt động sống (hay

cũng có thể gọi là hoạt động ứng xử), và không mở rộng lôl

sống gồm cả điều kiện sống.

Thuật ngữ văn hóa lôl sông (văn hóa ứng xử) xuất

hiện như là kết quả của quá trình cải biến xã hội nói

Mguyén Thanh Tuấn

X)ăn £óa ííwy xử D iệi OGun Ẻiệiì nay

chung và xây dựng con người mới, văn hóa mới nói riêng.

Và cùng với quá trình xây dựng con người mới, ván hóa

mới thì lốì sống mói được nghiên cứu sâu rộng trên bình

diện khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta.

1.1. Quan điểm vã cách tiếp cận ỏ các nưỡc xã hội chủ

nghĩa Đông Âu và Liên Xô trưỡc đây

Trong các thập niên 60 - 80 của thê kỷ XX, tại Liên

Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu có đến hơn 50

định nghĩa tiêu biểu về lốì sốhg và có thể quy về ba

khuynh hưóng sau:

Khuynh hướng thứ nhất, thường định nghĩa lối sổng

dựa vào khái niệm "hoạt động", "hành vi". Riêng khái niệm

"hoạt động" cũng có tác giả hiểu theo nghĩa rộng nhất, tức

là bao hàm cả những sinh hoạt thường ngày. Những định

nghĩa thuộc loại này có ưu điểm khắc họa được đặc điểm cơ

bản của lốỉ sốhg xã hội chủ nghĩa là coi lao động sáng tạo

với tính chất là hạt nhân trong hoạt động sống của con

người. Tuy nhiên, đốì vối cả những định nghĩa khái niệm

"hoạt động" cũng chưa phản ánh đầy đủ được các đặc điểm

của lốì sống. Thí dụ, G.Glezerman (Liên Xô) cho rằng: "lối

sống là tổng hòa những nét cơ bản, nói lên những đặc điểm

của các hoạt động sống của xã hội, dân tộc, giai cấp, các

nhóm xã hội, các cá nhân trong một hình thái kinh tê - xã

hội nhất định. Tiến sĩ triết học xô viết V.I.Tônxtưkhơ cũng

dựa vào hình thái kinh tế - xã hội, một phạm trù bao quát

tất cả những điều kiện và những nhân tô" quyết định lối

sống để xác định nội dung lốì sống, ông định nghĩa lối

sông là những hình thức cô" định, điển hình của hoạt động

sông cá nhân và tập đoàn của con người; những hình thức

ấy nói lên các đặc điểm về sự giao tế, hành vi và nếp nghĩ

của họ trong các lĩnh vực lao động, hoạt động xã hội -

chính trị, sinh hoạt và giải trí. Những định nghĩa bao quát

này có thể phản ánh được đầy đủ "cái xã hội" của lô"i sông;

nhưng lối sống là cái xã hội trong cái cá nhân cho nên tính

chủ thể của lô"i sông chưa được phản ánh rõ nét trong các

định nghĩa trên.

Khuynh hướng thứ hai, tập trung vào nền tảng của

lô"i sống - đó là các điều kiện vật chất quy định sự tồn tại

của con người. Những định nghĩa thuộc loại này thiên về

đề cao vai trò của "mức sông", thậm chí dùng phạm trù

"chất lượng sông" thay cho phạm trù lô"i sốhg. Chẳng hạn,

theo Z.Dunô"p (Hunggari), lối sông trưốc hết là những điều

kiện trong đó con người tự tái sản xuất về mặt sinh hoạt

cũng như về mặt xã hội. Đó là toàn bộ những hình thức

hành vi hàng ngày, ổn định và điển hình của con người.

Các điều kiện sông cũng như mô"i quan hệ của các

điều kiện ấy là nền tảng đánh giá sự thỏa mãn các nhu cầu

Nguyên Thanh Tuân

vật chất và tinh thần của con người và xã hội. Song tính

chất của hình thức thỏa mãn ấy như thế nào thì các định

nghĩa thuộc loại này giải đáp không tường minh. Do đó,

chúng không thể hiện rõ được tính chất xã hội, dân tộc,

văn hóa cũng như vai trò tích cực của chủ thể trong phạm

trù lối sống.

Khuynh hướng thứ ha, muốn kết hỢp những ưu điểm

và khắc phục những nhược điểm của hai khuynh hướng

trên. Các định nghĩa thuộc loại này xem xét lốĩ sống như

một dạng hoạt động thực tế của con người trong một xã hội

nhất định và cần phải phân biệt nó với những điều kiện

của hoạt động sốhg ấy. Như vậy, khuynh hướng thứ ba này

tiếp cận lối sốhg tương đồng với văn hóa ứng xử. A.p.

Butencô, một chuyên gia nghiên cứu về lối sống của Liên

Xô trưóc đây, tán thành quan điểm này. Sự phân biệt đó có

ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt phương pháp luận. Trên

thực tế nhiều nhà nghiên cứu thường đồng nhất lổĩ sốhg

vói các điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội. Như vậy, vô

hình chung họ không phân biệt tính đặc thù của lốĩ sốhg

trong các chê độ xã hội, các dân tộc và các nền văn hóa

khác nhau, ở phương diện khác nhau, một sô" nhà nghiên

cứu đã xem lối sống như một hình thức hành động hoặc

một hệ thốhg các hoạt động sốhg của con người, và xem xét

các điều kiện sông chỉ là môi trường bên ngoài của lốĩ sông.

X)ăn £óa ứiìỹ xứ U iệi OCam Ă iện naỳ

Quan điểm này không thấy rõ được môi quan hệ giữa chủ

thể và khách thể, do đó làm giảm vai trò quan trọng vổh có

của nền tảng xã hội đối vói ý thức và hành động, lẽ sông và

mức sốhg của con người.

1.2. Quan điểm vã cách tiếp cận ở Việt Nam

Nhìn chung, ba khuynh hướng định nghĩa về lối sống

trên đây là kết quả của cách tiếp cận khoa học khác nhau,

triết học, xã hội học, xã hội - tâm lý, xã hội - kinh tế, xã hội

- lịch sử, xã hội - chính trị, v.v... ở Việt Nam cũng đã có

những định nghĩa khác nhau về lôi sông, và nhìn chung

đều thuộc khuynh hướng thứ nhất và thứ ba. Thuộc

khuynh hưống thứ nhất phải kể đến định nghĩa của các

tác giả tập bài giảng Văn hóa xã hội chủ nghĩa của Học

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Theo đó thì "lốì sốhg

là một phạm trù xã hội học khái quát toàn bộ hoạt động

sống của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá

nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã

hội nhất định, và biểu hiện trên các lĩnh vực của đòi sốhg;

trong lao động và hưỏng thụ, trong quan hệ giữa người và

người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa"^'\ Còn định

IMguyén Thanh Tuấn

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Văn hóa xã hội chù nghĩa. Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.217-218.

12

nghĩa sau đây có thể xếp vào khuynh hướng thứ ba: "Nói

một cách đơn giản, lôi sốhg nói rõ con người sống như thế

nào, để làm gì, họ làm những gì, cuộc sốhg của họ chứa

đựng những hành vi nào. Vì thế, về thực chất, lối sông

không bao quát những điều kiện sốhg, mà toàn bộ những

hình thức hoạt động sông của con người trong quá trình

sản xuất của cải vật chất và tinh thần, cũng như trong

lĩnh vực xã hội - chính trị và gia đình - sinh hoạt”‘^\ Định

nghĩa này tiếp cận lốì sốhg gồm toàn bộ các hình thức hoạt

động đòi sốhg và không bao quát các điều kiện sống. Do đó,

nó rất gần với khái niệm văn hóa ứng xử.

Quan điểm của các nhà khoa học thuộc đề tài cấp

Nhà nước, nghiên cứu về lốì sốhg và môi trường, mã sô"

EX.06-13 đưỢc nêu khái quát trong Báo cáo tổng kết

chương trình nghiên cứu về văn hóa, văn minh, mã sô" KX￾06 (1991-1995) như sau: "Lô"i sống, trong một chừng mực

nhất định, là cách ứng xử của những người cụ thể của môi

trường sốhg. Môi trường là cái khách quan quy định, là

điều kiện khách quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng đến

lô"i sông của con người, của các nhóm xã hội và cộng đồng

dân cư". Định nghĩa này tiếp cận lốỉ sông như một phương

thức ứng xử thực tê của con người trong một môi trường

nhất định. Và lô"i sông tuy chịu sự quy định khách quan

X)ăn £óa ttwy xử X )iêí OGim £ ìện nay

’ Thanh Lê, v ề lối sống..., Tạp chí Cộng sản, sô 2.1981. tr.45.

của môi trường sông nhưng khi trở thành văn hóa lôi sông

thì cùng vói truyền thống văn hóa có thể biến cải môi

trường tự nhiên sao cho thích hỢp với hệ thống các nhu cầu

sống của con người. Định nghĩa này cũng thuộc khuynh

hướng thứ ba như phân tích ở trên, ưu điểm của nó là ở

chỗ trong khi làm sáng rõ được mốì quan hệ biện chứng

giữa lối sông và môi trường đã chỉ ra đưọc vai trò tích cực

của văn hóa lốì sống.

Trong những năm gần đây, ngoài một số công trình

liên quan đến văn hóa lốì sống, như bàn luận về lốĩ sống,

nếp sống, đạo đức chuẩn giá trị xã hội thì cũng có một vài

công trình nghiên cứu văn hóa ứng xử.

Trước hết, trong công trình "Cơ sở văn hóa Việt

Nam", Trần Ngọc Thêm không trình bày một định nghĩa

về văn hóa ứng xử, nhưng đã xác định nội hàm của khái

niệm này. Tác giả cho rằng, các cộng đồng chủ thể văn hóa

tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường (các dân tộc,

quốc gia láng giềng...). Vối mỗi loại môi trường đều có cách

thức xử thế phù hỢp là: tận dụng môi trường (tác động tích

cực) và ứng phó với môi trường (tác động tiêu cực)^^\ Đốì

vói môi trường tự nhiên, việc ăn uống là tận dụng, còn

mặc, ỏ, đi lại là ứng phó. Đối với môi trường xã hội - tác giả

IMguyén Thanh Tuấn

Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1999, tái bản lán

thứ 2, tr.16-17.

14

xác định; "Bằng các quá trình giao lưu và tiếp biến văn

hóa, mỗi dân tộc đều cô" gắng tận dụng những thành tựu

của các dân tộc lân bang để làm giàu thêm cho nền văn

hóa của mình; đồng thòi lại phải lo ứng phó với họ trên các

mặt trận quân sự, ngoại giao..."'^^ Văn hóa ứng xử với môi

trường tự nhiên và môi trường xã hội có hai hàm nghĩa là:

tận dụng và ứng phó. Có thể coi đó là thái độ ứng xử. Cách

thức thể hiện thái độ này là giao lưu và tiếp biến văn hóa.

Nội hàm khái niệm "văn hóa ứng xử" được tập thể tác

giả công trình "Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi

trường thiên nhiên" xác định tương đối đầy đủ, và "gồm

cách thức quan hệ, thái độ và hành động của con người đốì

với môi trường thiên nhiên, đốì với xã hội và đốĩ vói người

khác"*^\ Nghĩa là, văn hóa ứng xử, theo các tác giả, gồm 3

chiều quan hệ: với thiên nhiên, xã hội và bản thân. Văn

hóa ứng xử gắn liền với các thước đo mà xã hội dùng để

ứng xử. Đó là các chuẩn mực xã hội.

Cụ thể văn hóa ứng xử thông thường được chi phôi

bởi bô"n hệ chuẩn mực cơ bản của nhân cách: hệ chuẩn

mực trong lao động; hệ chuẩn mực trong giao tiếp; hệ

chuẩn mực gia đình; các chuẩn mực phát triển nhân

Z)ănÁỗa ứnỹ xứ U iệi OGim £ ìện na^

Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxh Giáo dục, 1999, tái bdn lần

thử2, IV.Ỉ6-I7.

Ngiivễn Viết Chức, chả biên, Những giá trị lịch sử văn hóa 1000 năm Thăng

Long - Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội. 2002, lr.54.

cách. Trong quá trình ứng xử, con người phải lựa chọn

giữa cái thiện và cái ác, cái đúng và cái sai, cái đẹp và

cái xấu, cái hỢp lý và cái phi lý... trong một cộng đồng

nhất định. Sự lựa chọn này bị chi phôi cũng bởi bôn hệ

chuẩn mực là: hệ chuẩn mực đạo đức, hệ chuẩn mực luật

pháp, hệ chuẩn mực thẩm mỹ và trí tụê, hệ chuẩn mực

về niềm tin.

Ngoài ra, phải thấy rằng, văn hóa giao tiếp của con

người có liên quan chặt chẽ với các kỹ năng giao tiếp đặc

trưng, được hình thành ở họ, ví dụ kỹ năng "chỉnh sửa" các

ấn tưỢng ban đầu về người khác khi mới làm quen với họ;

tôn trọng các quan điểm, sở thích, thị hiếu, thói quen...

của người khác v.v...*’\

Cho đến nay ở Việt Nam, nhìn chung khái niệm văn

hóa ứng xử đã được gián tiếp, trực tiếp làm rõ gồm: thái

độ, cách thức quan hệ, hành động và cả kỹ năng lựa chọn

nhằm tận dụng, ứng phó và thể hiện tình người với môi

trường tự nhiên, môi trường xã hội và với bản thân. Thái

độ, cách thức quan hệ, hành động và cả kỹ năng lựa chọn

đều bị chi phôi bởi các giá trị được biểu hiện dưới dạng

chuẩn mực cơ bản của xã hội.

Có thể nhận xét rằng, các định nghĩa về văn hóa ứng

xử, văn hóa lôi sống ở Việt Nam phần lớn thiên về cách

Nguyén Thanh Tuân

Phạm Minh Hạc, chù biên. Văn hóa và giáo dục, giáo dục và văn hóa, Nxb

Giáo dục, Hà Nội. 1998, tr.123-124.

16

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!