Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Vấn đề stress của công nhân ở một số khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn TP.HCM
PREMIUM
Số trang
111
Kích thước
1.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1730

Vấn đề stress của công nhân ở một số khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn TP.HCM

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH



ĐÀO THỊ DUY DUYÊN

VẤN ĐỀ STRESS CỦA CÔNG NHÂN Ở MỘT

SỐ KHU CHẾ XUẤT, KHU CÔNG NGHIỆP

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành : Tâm lý học

Mã số: 60 31 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. ĐINH PHƯƠNG DUY

Thành phố Hồ Chí Minh - 2010

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tôi. Các số liệu và

kết quả nghiên cứu là trung thực.

Đào Thị Duy Duyên

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Đinh Phương Duy đã tận tình hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý

báu cho đề tài và đã luôn động viên tôi cố gắng hoàn thành luận văn này.

Tôi cũng xin cảm ơn các Thầy Cô đã giảng dạy lớp Cao học Tâm lý học khóa 18 (2007 -2010) tại

trường ĐHSP TPHCM đã cung cấp cho tôi những kiến thức chuyên môn và kĩ năng nghiên cứu khoa học làm

cơ sở cho tôi hòan thành luận văn này.

Xin cảm ơn các anh/chị công nhân, các cán bộ quản lý đã nhiệt tình cung cấp cho tôi những thông tin

và số liệu quý báu giúp đề tài có được những kết quả chính xác và thực tế nhất.

Xin cảm ơn các bạn trong nhóm cộng tác viên đã đồng hành cùng tôi trong suốt giai đoạn thu thập số

liệu cho đề tài.

Xin cảm ơn các cán bộ , nhân viên công tác tại phòng Khoa học, công nghệ và sau đại học

Xin cảm ơn các Thầy trong hội đồng bảo vệ đề cương đã đóng góp những ý kiến định hướng nghiên cứu

cho tôi trong đề tài này.

Đào Thị Duy Duyên

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ đầy đủ

CN Công nhân

KCX – KCN Khu chế xuất – Khu công nghiệp

ĐTB Điểm trung bình

TX Thường xuyên

TT Thỉnh thoảng

KC Không có

SD Độ lệch chuẩn

Sig Mức ý nghĩa với hệ số tin cậy 95%

α=0.05

SL Số lượng

% Tỷ lệ phần trăm

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Lịch sử loài người đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, ở mỗi giai đoạn phát triển, con

người đều phải đối mặt với rất nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp nảy sinh trong cuộc sống, do đó con

người đều có nguy cơ bị stress. Nhiều nhà nghiên cứu về stress cho rằng xã hội càng phát triển, càng hiện

đại thì nguy cơ bị stress của con người ngày càng cao, đặc biệt trong xã hội mà chúng ta đang sống ngày

nay. Với sự phát triển của thời đại công nghiệp, bên cạnh việc nó làm cho điều kiện sống của con người

ngày càng tốt hơn thì mặt khác nó lại làm phát sinh rất nhiều những hệ lụy tiêu cực, trở thành những tác

nhân gây stress cho con người nhiều hơn. Xã hội càng hiện đại, nhịp sống ngày càng khẩn trương, gấp

gáp và đặt ra yêu cầu cao hơn ở con người, như Alvin Toffler đã chỉ ra rằng những biến động xã hội

mạnh mẽ mau lẹ và liên tục là những tác nhân gây stress thời hiện đại [ 31, tr.232], tác động tâm lý của

sự biến động này gây ra tâm trạng mơ hồ và lo hãi có chiều hướng gia tăng. Khi xã hội có nhiều thay đổi,

con người phải trải nghiệm nhiều sức ép nếu bản thân không kiềm chế được thay đổi hoặc bị thay đổi áp

đặt từ bên ngoài, một khi cá nhân cảm thấy mất khả năng kiềm chế và mất khả năng đoán trước được các

sự kiện thì sẽ gây ra căng thẳng và khi những sự thay đổi diễn ra với tốc độ quá nhanh cũng sẽ làm cho

con người cảm thấy bối rối vì nó vượt quá năng lực thích ứng của bản thân [31, tr.238].

Thật vậy, trong những năm gần đây stress là một vấn đề trở nên phổ biến trong đời sống xã hội, hầu

hết mọi người đã quen thuộc với thuật ngữ stress, stress có mặt trong mọi biến cố của cuộc sống, stress

xuất hiện ở mọi nơi, mọi hoàn cảnh sống của con người…Theo thống kê của tổ chức tư vấn doanh

nghiệp Grant Thornton International có trụ sở tại Anh, mức độ stress của các chủ doanh nghiệp trên

khắp thế giới đã tăng 57% vào năm 2006 so với 39% hồi năm 2005 [70]. Một cuộc nghiên cứu khác

của các nhà xã hội học Anh nghiên cứu trên 6000 người từ 18 tuổi trở lên cho thấy có 63% phụ nữ bị

stress và 51 % nam bị stress [72]. Ngoài ra, kết quả khảo sát đánh giá stress ở Việt Nam do công ty

Hoffmann – La Roche thực hiện trong thời gian 2 tháng ( 8-10/2003) với 834 người cũng cho thấy tỷ lệ

bị stress bình quân ở nước ta là 52% [75]. Stress trong việc làm là vấn đề mà hầu hết mọi CN đều

vướng mắc không nhiều thì ít. Thống kê của hãng bảo hiểm Northwestern National Life cho thấy tới

40% CN than phiền bị stress trong công việc. Kết quả theo dõi của đại học Yale cho hay 29% CN bị

stress khá nặng vì công việc.

Các kết quả khảo sát trên cho thấy tỷ lệ người bị stress đang ngày càng gia tăng đáng kể trong xã

hội hiện nay. Stress có thể xảy ra với bất cứ ai, ở mọi lứa tuổi, mọi giới, mọi ngành nghề khác nhau,

không chỉ trên thế giới, mà ở nước ta số người bị stress cũng khá cao.

Nước ta đang trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên xã hội còn rất nhiều khó khăn phức

tạp và có nhiều vấn đề nảy sinh nên con người luôn đứng trước nguy cơ bị stress. Trong những năm

gần đây, tại TPHCM ngày càng có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập đã thu hút rất

nhiều CN từ khắp mọi miền đất nước tập trung đến để làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp, doanh

nghiệp. Có thể nói trong giai đoạn nước ta đang chú trọng phát triển công nghiệp như hiện nay thì CN

là một lực lượng lao động rất quan trọng góp phần vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội. Tuy

nhiên, một thực tế cho thấy rằng đời sống CN đang còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn cả về vật

chất lẫn tinh thần bởi đa số họ là những người xuất thân từ nông dân, trình độ văn hóa không cao, và

chủ yếu là dân nhập cư phải sống xa gia đình, xa quê hương, đời sống kinh tế thấp …,chính những khó

khăn thiếu thốn ấy lại càng làm cho CN có nguy cơ bị stress cao hơn, họ không chỉ có nguy có bị stress

trong công việc mà cả những áp lực, thách thức, khó khăn do cuộc sống thời đại hiện nay mang lại

cũng rất dễ làm cho CN bị stress. Một khi bị stress và không biết cách ứng phó thì stress sẽ ảnh hưởng

rất nhiều đến hiệu quả lao động của CN và sẽ gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Do đó, việc quan tâm

đến đời sống tinh thần của CN, đặc biệt là tình trạng stress của CN hiện nay để có những biện pháp hỗ

trợ kịp thời nhằm giúp giải tỏa stress là một việc làm rất cần thiết của mỗi doanh nghiệp nói riêng và

của xã hội nói chung.

Khi đứng trước những tác nhân gây stress nếu mỗi người được trang bị những kĩ năng ứng phó và

giải tỏa stress thì stress sẽ không phải là mối đe dọa to lớn nhưng ngược lại nếu không có sự hiểu biết

về stress, không có đủ khả năng để tự mình ứng phó với stress mà lại không nhận được sự hỗ trợ từ bên

ngoài thì khi đó stress sẽ là một mối đe dọa cho đời sống của mỗi người. Như đã nói, đặc điểm CN

đang làm việc tại TPHCM đa phần là có trình độ thấp, đời sống vật chất khó khăn, đời sống tin thần

thiếu thốn, việc tiếp cận thông tin còn nhiều hạn chế nên có thể nói những hiểu biết về stress và những

kĩ năng ứng phó, ngăn ngừa stress cũng ít nhiều còn hạn hẹp nên CN ắt hẳn rất cần đến sự hỗ trợ từ

phía xã hội, từ doanh nhiệp…để giúp họ đối diện, vượt qua stress một cách dễ dàng. Cho nên, việc tìm

hiểu nhu cầu của CN để có sự đáp ứng kịp thời là một việc khẩn thiết và có ý nghĩa to lớn.

Chính thực tế cho thấy stress đang ngày càng phổ biến trong xã hội nên trong những năm gần đây

đã có nhiều công trình nghiên cứu về stress ở nước ta ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có ngành tâm

lý học. Các nhà tâm lý cũng đã bắt đầu nghiên cứu về stress trong lĩnh vực lao động, kỹ thuật, quản lý,

stress ở từng lứa tuổi. Một số đề tài luận văn cao học tâm lý học cũng đã bắt đầu nghiên cứu stress ở tuổi

trung niên, stress ở học sinh, sinh viên, stress ở người trưởng thành và một vài khóa luận tốt nghiệp đã

bước dầu nghiên cứu về stress nghề nghiệp ở CN…nhưng riêng đối với vấn đề stress nói chung ở CN và

nhu cầu của họ về sự hỗ trợ từ bên ngoài để giúp ngăn ngừa và ứng phó với stress là một vấn đề chưa

được nghiên cứu sâu ở một công trình nghiên cứu khoa học nào. Hơn thế nữa, đa phần những khách thể

nghiên cứu trong đề tài nghiên cứu chuyên ngành tâm lý học nước ta chưa chú trọng đến CN, một lực

lượng lao động khá đông và quan trọng của xã hội, cho nên việc nghiên cứu những vấn đề tâm lý trên

khách thể này là một hướng đi mới và rất cần thiết, góp phần làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu

trong chuyên ngành tâm lý học nước ta và trên cơ sở đó mang lại những lợi ích thiết thực cho CN về mặt

đời sống tinh thần.

Với những lý do đã trình bày, người nghiên cứu quyết định thực hiện đề tài “ Vấn đề stress của

công nhân ở một số khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh” nhằm tìm hiểu thực

trạng stress của CN về mặt lý luận và thực tiễn, cũng như nhu cầu của CN về sự hỗ trợ xã hội trong

việc giải tỏa stress, qua đó thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đến vấn đề

stress của CN để góp phần nâng cao chất lượng đời sống tâm lý, tinh thần cho họ.

2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu một cách khái quát vấn đề stress ở CN về mặt lý luận, thực tiễn, đồng thời khảo sát

nhu cầu của CN về sự hỗ trợ xã hội trong việc ngăn ngừa và ứng phó với stress. Trên cơ sở đó đề xuất

với các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội có những biện pháp cụ thể giúp CN ứng phó với stress và

nâng cao chất lượng cuộc sống về mặt tinh thần.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1 Khách thể nghiên cứu

400 CN đang trực tiếp làm việc tại khu chế xuất Tân Thuận, khu công nghiệp Tân Tạo, khu công

nghiệp Vĩnh Lộc trên địa bàn TPHCM

7 cán bộ quản lý trực tiếp và gần gũi CN

3.2Đối tượng nghiên cứu

Stress ở CN, nhu cầu hỗ trợ xã hội và các giải pháp từ sự hỗ trợ xã hội trong việc giúp CN ngăn

ngừa và ứng phó với stress

4. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu stress của CN trực tiếp lao động sản xuất trong các dây chuyền

và cơ sở sản xuất

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1Nghiên cứu cơ sở lý luận về stress nói chung và stress ở CN

5.2 Khảo sát thực trạng hiểu biết về stress của CN, mức độ stress, những biểu hiện stress , nguyên

nhân gây stress , cách ứng phó của CN với stress.

5.3 Khảo sát nhu cầu của CN về sự hỗ trợ xã hội trong việc giúp họ ứng phó với stress

5.4 Đề xuất những biện pháp từ sự hỗ trợ xã hội để giảm stress cho CN

6 . Giả thuyết nghiên cứu

6.1Đa số CN đang làm việc ở các khu chế xuất, khu công nghiệp tại TPHCM chưa có hiểu biết đầy

đủ về stress và họ bị stress biểu hiện ở các mức độ khác nhau, tập trung ở mức độ thỉnh thoảng bị

stress. Có nhiều nguyên nhân gây ra stress, trong đó những yếu tố về đời sống vật chất, tình cảm, công

việc ảnh hưởng nhiều tới mức độ stress của CN. Stress tác động tiêu cực đến hiệu quả lao động và đời

sống của CN thể hiện qua những biểu hiện khi bị stress. Mặc dù CN đã có một số cách thức cụ thể để

ứng phó với stress nhưng họ vẫn có nhu cầu rất lớn về sự hỗ trợ xã hội để giúp ngăn ngừa và ứng phó

với stress.

6.2 Có sự khác biệt giữa các nhóm khách thể về mức độ của stress, sự hiểu biết về stress .

7 . Phương pháp nghiên cứu

7.1Phương pháp nghiên cứu lý luận

Phân tích và tổng hợp tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài gồm các vấn đề liên quan đến

stress nói chung và stress ở CN

7.2Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

- Phương pháp phỏng vấn

- Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình ( case study)

- Phương pháp xử lý toán thống kê bằng phần mềm SPSS: tần số, trung bình, kiểm nghiệm Anova,

kiểm nghiệm T….

8 . Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

8.1Ý nghĩa khoa học

Khái quát và hệ thống hóa những lý luận về stress dưới góc độ tâm lý học nói chung và stress ở

CN nói riêng. Góp phần làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu của chuyên ngành tâm lý học bằng

việc mở rộng nghiên cứu các vấn đề tâm lý, cụ thể là stress trên khách thể nghiên cứu là CN – một lực

lượng lao động quan trọng trong xã hội nhưng vẫn chưa được nhiều người quan tâm nghiên cứu.

8.2Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn cung cấp những kết quả thực tế những hiểu biết của CN về stress, thực trạng stress ở

CN, những nguyên nhân và ảnh hưởng của stress đến hiệu quả lao động và chất lượng cuộc sống của

CN, một số cách CN thường sử dụng để ứng phó với stress và hiệu quả của các biện pháp đó. Ngoài ra

còn giúp chúng ta thấy được nhu cầu hiện nay của CN về sự trợ giúp xã hội trong việc giúp ngăn ngừa

và ứng phó với stress một cách hiệu quả.

Từ những kết quả nghiên cứu trên, các nhà quản lý doanh nghiệp, các tổ chức xã hội như công

đoàn, trung tâm hỗ trợ thanh niên CN, quỹ hỗ trợ CN sẽ nắm bắt được thực trạng stress hiện nay của

CN và nhu cầu cần được hỗ trợ của CN thế nào để có những biện pháp hỗ trợ cụ thể nhằm ngăn ngừa

và giảm thiểu tình trạng stress cho CN về lâu dài, việc làm này một mặt thể hiện sự quan tâm của

doanh nghiệp, của đoàn thể xã hội đến CN, mặt khác làm cho hiệu quả kinh tế không ngừng được nâng

cao vì khi CN được quan tâm đến sức khỏe và cải thiện tình trạng stress kịp thời thì họ mới chuyên tâm

lao động, không để stress ảnh hưởng đến công việc.

Bên cạnh đó, kết quả của luận văn cũng cung cấp những số liệu cần thiết làm cơ sở cho các nhà

tâm lý học đề xuất xây dựng và đưa vào hoạt động mô hình tham vấn stress cho CN trực tiếp tại các

doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ở TPHCM, đây sẽ là một cơ hội việc làm rất

tiềm năng cho những người tốt nghiệp ngành tâm lý học hiện nay.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề stress và stress ở CN

1.1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề stress trên thế giới

Khi con người xuất hiện thì lúc đó stress cũng đã tồn tại trong cuộc sống của con người, tuy

nhiên người ta chưa nhận thức rõ ràng về những hiện tượng mà sau này được nhiều nhà khoa học gọi là

stress mà chỉ nghiên cứu nhiều khía cạnh của stress dưới những thuật ngữ khác nhau và chưa mang

tính hệ thống. Stress thật sự được quan tâm nghiên cứu một cách khoa học bắt đầu từ thế kỉ 17 bởi

Hooke với thuyết “Engineering Analogy” ( tương đồng cấu trúc) trong lĩnh vực kiến trúc xây dựng.

Hooke đã đưa ra các thuật ngữ “load” khối nặng đè lên cấu trúc, “stress “ phần bị khối nặng đè lên và

“strain” sự thay đổi hình dạng do tương tác giữa khối nặng và stress. Những khái niệm này có nhiều

nét tương đồng với những khái niệm liên quan đến stress tâm sinh lý về sau này : stress là những yêu

cầu bên ngoài đặt lên hệ tâm sinh lý xã hội [45,tr1]

Sau đó, stress được nhiều nhà sinh lý học quan tâm nghiên cứu: Ảnh hưởng sinh học của sự sợ

hãi được Luis Juan Vives miêu tả từ nhiều thế kỷ trước. Cơ sở cho hiểu biết của chúng ta về khái niệm

stress đã được nghiên cứu hơn một thế kỷ trước đây bởi nhà khoa học người Pháp Claude Bernard.

Ông là người đầu tiên nhận ra làm thế nào cơ thể nỗ lực để duy trì một trạng thái tương đối cố định bên

trong cơ thể trong một môi trường luôn thay đổi (Bernard, 1878)

Năm 1911, Walter Bradford, một sinh học gia Hoa Kỳ đã nhận thấy kích thích tố nang thượng

thận gia tăng khi cơ thể bị xúc động mạnh [64], những phát hiện này làm tiền đề cho những nghiên cứu

về mối liên hệ giữa stress và sức khỏe sau này.

Walter Cannon (1927) là nhà nghiên cứu đầu tiên mô tả một cách khái quát một phản ứng đối

với sự đe dọa mà ông gọi là phản ứng “chống hoặc chạy” (fight or flight), mỗi khi các loài vật đối mặt

với kẻ săn mồi, chúng phải quyết định chống cự hay chạy trốn. Trong cả hai tình huống này, nhịp tim

và huyết áp tăng cao, tăng nhịp thở, tăng hoạt động cơ bắp. Thị lực và thính lực hoạt động mạnh hơn

để đạt được hiểu qua tốt hơn. Theo ông, đây là một phản ứng được “cài đặt sẵn” về mặt sinh học, cho

phép mỗi sinh vật có thể ứng phó với những tác nhân gây đe dọa từ môi trường bên ngoài [10], [84] .

Kết quả nghiên cứu của Cannon được vận dụng trong những nghiên cứu về những chiến lược ứng phó

stress của con người sau này, hoặc là đối diện để giải quyết tác nhân gây stress hoặc là né tránh chúng.

Hans Hugo Bruno Selye, là người đã phổ biến từ ngữ stress trong công chúng khi ông phát hành

cuốn “The Stress of Life” vào năm 1956, và cũng là một người nghiên cứu rất nhiều về stress để rồi

những quan điểm của ông trở thành những luận điểm cơ bản, nền móng cho những nghiên cứu khoa

học về stress. Ông cho rằng bất cứ sự kiện nào đòi hỏi sự thích ứng đều làm khởi phát các đáp ứng sinh

lý đặc trưng cho stress, những đáp ứng này cũng có tính không đặc hiệu; các loại sự kiện gây stress

khác nhau đều dẫn đến những biến đổi tương tự nhau. Và gọi quá trình đáp ứng này là “hội chứng

thích nghi chung” (General Adaptation Syndrome - GAS) [64]. GAS ngụ ý chỉ những hoạt động thần

kinh và nội tiết cho phép cơ thể sinh vật chống lại những kích thích sinh lý có hại. GAS được chia làm

ba giai đoạn: báo động , kháng cự và kiệt quệ (exhaustion)[15],[84]. Mô hình GAS mặc dù có hạn chế

là chỉ mới đề cập đến yếu tố sinh lý, chưa đề cập đến yếu tố tâm lý những nó được xem là cơ sở hiểu

biết của chúng ta về stress . Selye còn tiếp tục những nghiên cứu của ông về stress với hàng trăm trang

luận cứ khoa học và 39 cuốn sách. [8], [52]

Một điểm giống nhau trong lý thuyết của Selye và Cannon là sự xuất hiện các đáp ứng “chống

hoặc chạy” và GAS tùy thuộc vào sự nhận biết của sinh vật về các kích thích có hại và việc diễn giải các

kích thích này là có tính đe dọa hoặc có hại cho chúng hay không. Bổ sung thêm vào luận điểm này

Syrington, Currie, Curran, Davidson, (1955) và Mason (1975) đã thừa nhận: “khi các kích thích có hại

xảy đến mà không có sự nhận biết của đương sự, các đáp ứng sinh học sẽ không xảy ra”. Đồng thời sự

xuất hiện phản ứng “chống hoặc chạy” và GAS phụ thuộc vào khả năng tiên đoán và kiểm soát các sự

kiện có hại. [84]. Đồng quan niệm với luận điểm này, một loạt nghiên cứu của Weiss (1968,1971) trên

chuột cũng đã cho thấy tầm quan trọng của những khả năng tiên đoán và kiểm soát đối với những sự kiện

đe dọa, và mối quan hệ giữa nó với bệnh loét dạ dày. Những phát hiện của Weiss cho thấy một sự kiện

đe dọa sẽ ít gây ra những hậu quả tai hại nếu chúng ta biết được khi nào nó sẽ xảy ra, nếu chúng ta có thể

làm được một việc gì đó trước sự kiện ấy, và nếu chúng ta nhận được những phản hồi về hiệu quả của

hành động ấy. Tầm quan trọng của khả năng tiên đoán và kiểm soát cũng được thấy trong các đáp ứng

của con người đối với những tác nhân gây stress (Rodin, 1980) [84]

Nhiều người nghiên cứu cho rằng những nghiên cứu dựa trên quan điểm stress là một đáp ứng

sinh lý có tính không đặc hiệu - các loại sự kiện gây stress khác nhau đều dẫn đến những biến đổi tương

tự nhau là quan điểm đúng nhưng chưa thật đầy đủ. Vì vậy họ nghiên cứu stress theo quan điểm stress

như một sự kiện từ môi trường - tất cả các sự thay đổi tích cực hoặc tiêu cực từ môi trường, cuộc sống

đều có tính chất gây stress và mỗi một sự kiện nhất định đều có tính chất gây stress như nhau với tất cả

mọi người. Các nghiên cứu thực hiện theo quan điểm môi trường đều có bản chất dịch tễ học: số lượng

và mức độ của các sự kiện gây stress sẽ có tính tiên lượng cho tình trạng sức khỏe của đương sự. [84].

Tuy nhiên, sau này quan điểm stress như một sự kiên từ môi trường được đánh giá là cũng có hạn chế

trong việc giải thích tại sao lại có những sự kiện gây stress cho người này nhưng không gây stress cho

người khác.

Vào những năm 1970 và 1980, nhiều nhà nghiên cứu đã công bố các chương trình nghiên cứu

thực nghiệm nhằm tìm ra mối liên hệ giữa thay đổi cuộc sống và đau ốm. Điển hình cho những cuộc

nghiên cứu này là cuộc nghiên cứu của Thomas Holmes và Richard Rahe (1967), họ đã thiết kế một

thang đo mức độ stress đi kèm với các sự kiện thường gắn với cuộc sống hằng ngày gọi là thang đo sự

kiện cuộc sống (SRE: schedule of recent events - gồm 43 sự kiện cuộc sống) để tìm ra những tình huống

nào trong cuộc sống có khả năng gây stress nhiều nhất [31, tr 243]. Ngoài ra cuộc nghiên cứu này cũng

đưa ra kết luận càng tích lũy nhiều khủng hỏang trong cuộc sống thì con người càng dễ bị đau ốm trong

khỏang thời gian nào đó [31, tr 247], [84]

Việc ra đời của SRE được xem là một đóng góp rất có giá trị trong việc nghiên cứu nhiều vấn đề

liên quan đến stress . Sau này, nhiều nhà nghiên cứu khác đã ứng dụng thang đo sự kiện cuộc sống vào

những nghiên cứu của mình như Patrich và Holmes (1987) nghiên cứu tương quan giữa những sự kiện

cuộc sống với thời gian mắc các bệnh mãn tính, A.L Beautrais và cộng sự (1982) lọc ra 20 trong 43

items trong thang đo nói trên để nghiên cứu dọc trên 1082 trẻ em theo dõi từ mới đẻ đến 4 tuổi, kết quả

cho thấy gia đình nào có 12 biến cố trở lên thì số lần trẻ em của gia đình đó phải vào viện gấp 6 lần so

với nhóm gia đình chỉ có 3 biến cố và các bệnh thường gặp là viêm phổi, tiêu chảy, tai nạn, bỏng, ngộ

độc. H.A Williamson (1989) dùng thang đo trên để theo dõi 513 phụ nữ mang thai để nghiên cứu liên

quan giữa biến cố cuộc sống với các biến cố lúc chưa sinh. [31, tr 248-249].

Một hướng nghiên cứu khác về stress là nghiên cứu mặt tích cực của stress : những người này

cho rằng, stress không thể thiếu trong cuộc sống mà “thiếu stress” vì thế cũng có thể gây ảnh hưởng

tiêu cực (Frankenhaeuser, 1978), Những người được bảo vệ tránh stress quá mức có lẽ có nguy cơ cao

bởi vì họ không thể phát triển được những kỹ năng ứng phó cần thiết trong đời sống hằng ngày

(Murphy, 1979). Stress có thể dẫn đến những hệ quả tích cực. Giải quyết thành công những đe dọa và

thách thức sẽ đưa đến những cảm xúc tích cực, tạo nên những cảm giác về tính hữu dụng của bản thân

và sức khỏe thể chất [84]

Nhìn chung, hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về stress, có những nghiên cứu

thuần túy lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm, thực tiễn trên một đối tượng nhất định hoặc kết hợp cả

hai trên nhiều lĩnh vực riêng lẻ y học, sinh học, tâm lý học, xã hội học hoặc những nghiên cứu liên

ngành. Những kết quả nghiên cứu đó giúp cho con người hiểu biết thêm về stress và có cách ngăn chặn

những tác động của nó khi mà xã hội hiện nay stress đang ngày càng trở nên phổ biến. Riêng đối với

lĩnh vực tâm lý học, tác giả L.A .Kitaepxmưx (1983) đã thống kê các sách báo khoa học nghiên cứu

stress bằng tiếng Anh và Đức từ năm 1976-1980 có trên 1000 tài liệu được công bố [27, tr12] , cho đến

nay thì con số đó đã tăng lên đáng kể, điển hình là chỉ bằng thao tác tìm kiếm trên công cụ Google với

từ chính xác “psychology of stress” thì có 6.018 kết quả, với cụm từ “ psychology studies on stress “

thì có 1.180 kết quả , đó là chưa kể đến những nghiên cứu không đưa lên internet và những ngôn ngữ

khác…điều này cho thấy tâm lý học hiện nay đã quan tâm nghiên cứu rất nhiều về stress, và nhiều

trường đại học trên thế giới đã nghiên cứu và đưa stress vào nội dung giảng dạy cho sinh viên, có thể

khái quát những xu hướng nghiên cứu sau:

- Nghiên cứu nội hàm của khái niệm stress dưới góc độ tâm lý học : Gatchel & Baum (1983) R.S.

Lazarus and S. Folkman (1984), S. Palmer (1999), nhà tâm lý học Mc Grath, Robert S. Feldman

(1997), Stephen Worchel và Wayne Shebilsue, bác sĩ Eric Albert, nhà tâm lý học, người sáng lập Viện

nghiên cứu stress

- Nghiên cứu stress tâm lý : bao gồm những biểu hiện về mặt tâm lý khi bị stress và những ảnh

hưởng tâm lý của stress đối với cá nhân, những phương pháp,liệu pháp tâm lý giải tỏa stress, cách

phòng ngừa stress về mặt tâm lý v.v …điển hình như một số nghiên cứu của Weiss (1972), Lagone

(1981), [19]

- Nghiên cứu những tác nhân gây stress, phân loại chúng và những ảnh hưởng của những yếu tố

tâm lý cá nhân đến việc xuất hiện và duy trì stress, cũng như loại bỏ nó như loại nhân cách và stress,

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!