Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại (qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu)
PREMIUM
Số trang
164
Kích thước
955.1 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1526

Tài liệu đang bị lỗi

File tài liệu này hiện đang bị hỏng, chúng tôi đang cố gắng khắc phục.

Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại (qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu)

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

VẤN ĐỀ PHÁI TÍNH VÀ ÂM HƢỞNG NỮ QUYỀN

TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI

(QUA SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN NỮ TIÊU BIỂU)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Chuyên ngành Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2013

1

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

VẤN ĐỀ PHÁI TÍNH VÀ ÂM HƢỞNG NỮ QUYỀN

TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI

(QUA SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN NỮ TIÊU BIỂU)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 62 22 34 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP

Hà Nội - 2013

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong

văn xuôi Việt Nam đương đại” (qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu) là

công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi và chưa từng được công bố. Những

tài liệu được trích dẫn trong luận án là chính xác và trung thực.

Tác giả luận án

3

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 5

1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………..........5

2. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu ……………………………………...6

3. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………...7

4. Đóng góp của luận án ……………………………………………………………...8

5. Cấu trúc luận án ……………………………………………………………............8

NỘI DUNG

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁI TÍNH VÀ NỮ

QUYỀN TRONG VĂN HỌC 10

1.1. Giới thuyết về phái tính và nữ quyền…………………………………………......10

1.1.1. Quan niệm truyền thống về phái tính……………………………..........................10

1.1.2. Ý thức phái tính và sự xuất hiện của Chủ nghĩa nữ quyền………………………..12

1.2. Tình hình nghiên cứu về phái tính và nữ quyền trên thế giới và Việt Nam...……….15

1.2.1. Vấn đề phái tính và nữ quyền ở nước ngoài……….................................................15

1.2.2. Vấn đề phái tính và nữ quyền ở Việt Nam…………………………………..…….20

Chƣơng 2: VẤN ĐỀ PHÁI TÍNH VÀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC TRUYỀN

THỐNG 31

2.1. Sự xác lập ý thức phái tính và nữ quyền trong văn học Việt Nam truyền thống........32

2.1.1. Văn hoá Mẫu hệ - nền tảng của ý thức phái tính trong văn học truyền thống…….32

2.1.2. Nho giáo và nữ quyền trong văn học………………………..………......................35

2.2. Cảm quan phái tính và thân phận người phụ nữ trong ca dao ………………………37

2.3. Cảm quan phái tính và nữ quyền trong văn học Việt Nam trung đại ……………….41

2.3.1. “Chuyện người con gái Nam Xương và người phụ nữ với nỗi buồn nhân thế……42

2.3.2. Cảm quan tính dục trong thơ Hồ Xuân Hương…………………………………....43

2.3.3. Cảm quan về tính dục và thân phận người phụ nữ trong văn học Việt Nam từ thế

kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX ……………………...........................................................48

2.4. Ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam trước năm 1975...50

2.4.1. Từ đầu thế kỷ XX – 1945……………………………………………………….....50

2.4.1.1. Phan Khôi và Manh Manh nữ sĩ: Khúc dạo đầu của phê bình nữ quyền trong

4

văn học đầu thế kỷ XX…………………………………………………………………..51

2.4.1.2. Văn học Nam Bộ đầu thế kỷ XX: Từ người phụ nữ mù chữ đến người phụ nữ

viết văn…………………………………………………………………………...............55

2.4.1.3. “Gái mới” trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn - hình ảnh mới của ý thức phái

tính và nữ quyền trong văn học Việt Nam……………………………………………….58

2.4.2. Ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam từ năm 1945

đến năm 1975 …………………………………………………………………………….59

2.4.2.1. Ý thức phái tính và nữ quyền trong văn học cách mạng…………...……………59

2.4.2.2. Vấn đề thân phận người phụ nữ trong văn xuôi đô thị miền Nam từ 1954 đến

1975………………………………………………………………………………………60

Chƣơng 3: Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ ÂM HƢỞNG NỮ QUYỀN TRONG VĂN

XUÔI NỮ VIỆT NAM TỪ SAU NĂM 1975 DƢỚI GÓC ĐỘ NỘI DUNG 70

3.1. Bối cảnh lịch sử xã hội và tình hình văn học Việt Nam từ sau năm 1975………….70

3.2. Xác lập một lối viết nữ…………………………………………………………....72

3.3. Hành trình tìm lại bản ngã……………………………………………...................75

3.3.1. Nhân vật nữ trong sáng tác của các nhà văn nữ……………………………..........75

3.3.1.1. Người phụ nữ và những cuộc chiến vẫn còn nhức nhối……………………...78

3.3.1.2. Người phụ nữ và những khát khao hạnh phúc đời thường……………………86

3.3.1.3. Tính dục như một phương thức thể hiện bản ngã……………………………..93

3.3.2. “Xét lại” thế giới đàn ông bằng con mắt đàn bà………………….………………106

Chƣơng 4: Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ ÂM HƢỞNG NỮ QUYỀN TRONG VĂN

XUÔI NỮ VIỆT NAM TỪ SAU NĂM 1975 DƢỚI GÓC ĐỘ NGHỆ THUẬT 117

4.1. Không/thời gian nghệ thuật – bức tranh thế giới qua con mắt người phụ nữ………117

4.2. Ngôn ngữ, giọng điệu – bước đột phá về diễn ngôn phái tính…………….….........125

4.3. Khuynh hướng tự truyện như một nét đặc thù của lối viết nữ ………………..........133

KẾT LUẬN 150

THƢ MỤC THAM KHẢO 152

5

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

“Nữ nhi thường tình”, “Nữ sinh ngoại tộc”, “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết

vô”,... là những câu nói người ta vẫn truyền đời lại cho nhau. Thái độ “trọng nam

khinh nữ” qua hàng ngàn năm lịch sử đã bám rễ rất sâu vào xã hội bị cai trị bởi tư

tưởng nam quyền, thậm chí ngay cả nhiều người phụ nữ cũng ngầm thừa nhận vai

trò thống trị của nam giới.

Cuộc đấu tranh để giành lại địa vị đã mất của nữ giới vốn âm ỉ từ lâu trong lịch

sử đã dần phát triển mạnh mẽ với tên gọi là Nữ quyền luận - Chủ nghĩa nữ quyền

(Feminism). Và cho đến nay, bình đẳng giới tính và nữ quyền vẫn thuộc những vấn

đề quan trọng nhất của thời đại. Có một điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là

trong đa số các nền văn hóa ở cả phương Đông lẫn phương Tây, giới thường phải

chịu nhiều bất công nhất trong xã hội chính là nữ giới. Do đó, tranh đấu về bình

đẳng giới tính thường đồng nghĩa với đấu tranh cho nữ quyền. Cuộc đấu tranh vì

bình đẳng giới đã đồng loạt diễn ra trên mọi phương diện của đời sống xã hội, trong

đó có văn học nghệ thuật.

Có một sự thật hiển nhiên rằng khi nhắc đến văn học nữ quyền/âm hưởng nữ

quyền/tinh thần nữ quyền/sắc thái nữ quyền trong văn chương, chúng ta hoàn toàn

không nên phân biệt giữa nhà văn nam hay nhà văn nữ. Dõi theo tiến trình phát

triển của nền văn học thế giới vì sự bình đẳng giới, chúng ta có thể thấy rõ điều đó.

Ở Việt Nam, điều này cũng không ngoại lệ. Bằng nhiều phương thức khác nhau,

các nhà văn đã đưa vào tác phẩm của mình hình ảnh người phụ nữ và cuộc sống

của chính họ trong muôn nẻo đường đời, tình đời, tình người với tất cả thấu hiểu,

thông cảm, sẻ chia và yêu thương.

Thời gian gần đây, người ta thường hay nhắc đến một trào lưu “văn học nữ

quyền” hoặc “văn học mang âm hưởng nữ quyền”, trong đó nhấn mạnh “văn

chương mang tính nữ” với ngụ ý đề cập đến những tác phẩm cất cao tiếng nói nghệ

thuật để đứng về nữ giới, bảo vệ nữ giới và thể hiện những đặc tính riêng, những

6

khát khao hạnh phúc của “phái yếu” và những người cầm bút chính là những người

phụ nữ.

Có nhiều nhà phê bình cho rằng chúng ta cần nói về văn học nữ, nhưng

không phải trong ngữ cảnh “phân chia” thành văn học nam hay nữ, mà chỉ nên

ngầm hiểu đó là “sự mở rộng di sản văn học khi khẳng định tính độc đáo và cá tính

sáng tạo của những người phụ nữ viết văn”. [145]. Nhà nghiên cứu O.Gavrilina gắn

khái niệm “văn học nữ” với hai ý nghĩa cơ bản: “… trong nghĩa rộng, đó là tất cả

những tác phẩm được viết bởi phụ nữ, không phụ thuộc vào việc tác giả khi sáng

tác đứng trên quan điểm nữ quyền hay vẫn tuân theo những truyền thống phụ

quyền. Trong nghĩa hẹp, đó là nhóm những văn bản trong đó thể hiện cái nhìn riêng

của phụ nữ đối với những vấn đề truyền thống của nhân loại (sự sống và cái chết,

tình cảm và nghĩa vụ, mối quan hệ qua lại giữa con người với thiên nhiên, gia đình

và nhiều vấn đề khác)”.[145].

Ấp ủ khao khát khám phá đặc trưng giới về loại hình và thi pháp của một số nhà

văn nữ đương đại tiêu biểu từ những năm cuối thập kỉ 80 thế kỉ XX tới nay như Lê

Minh Khuê, Dạ Ngân, Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo,

Võ Thị Xuân Hà, Lí Lan, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Hoàng Diệu, Phong Điệp,

Nguyễn Ngọc Tư,... nhằm tìm hiểu “lối viết nữ” riêng ở họ, tôi quyết định lựa chọn

đề tài nghiên cứu “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt

Nam đương đại” (Qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu).

2. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Trong luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu ý thức phái tính và

âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi nữ những năm gần đây. Xác định đối tượng

nghiên cứu như vậy, phạm vi nghiên cứu chính của luận án là tác phẩm của các tác

giả Lê Minh Khuê, Phạm Thị Hoài, Trần Thuỳ Mai, Thuận, Lý Lan, Dạ Ngân, Y

Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ

Hoàng Diệu, Phong Điệp, Nguyễn Ngọc Tư,… Trong đó, đối tượng khảo sát chủ

yếu là truyện ngắn.

7

2.2. Về nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi xác định, thứ nhất, bằng việc tổng

hợp tư liệu, chúng tôi tái hiện khái niệm phái tính và sự vận động của ý thức phái

tính theo tiến trình lịch sử trên những phương diện chính là văn hoá, xã hội, văn

học để từ đó bước đầu phác thảo những nét cơ bản của tiến trình phát triển ý thức

phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam từ truyền thống đến hiện

đại. Thứ hai, thông qua việc lựa chọn tác phẩm của một số tác giả nữ tiêu biểu,

chúng tôi xác định cho mình nhiệm vụ nghiên cứu chính là: Soi sáng những cơ sở

lý luận- triết học của việc phân tích nữ quyền luận và tường giải tác phẩm; Xác

định loại hình văn xuôi nữ trên cơ sở bản sắc giới và đặc điểm cá tính sáng tạo của

một số nhà văn nữ tiêu biểu; Lý giải cốt truyện và xung đột tâm lý xã hội trong tác

phẩm của các tác giả nêu trên như là sự phản ánh bằng nghệ thuật cấu trúc giới của

xã hội hiện đại; Khám phá đặc trưng thế giới nội tâm của các nhân vật, những mô

típ ứng xử thể hiện đặc điểm về phương diện giới của văn xuôi nữ hiện đại; Khám

phá đặc trưng về mặt ngôn ngữ, giọng điệu của văn xuôi nữ và vai trò của nó trong

việc tạo dựng bức tranh thế giới dưới cái nhìn về giới.

3. Phƣơng pháp nghiên cứu

Thực hiện đề tài luận án, chúng tôi vạn dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:

3.1. Vận dụng phương pháp lịch sử - phái sinh nhằm nhìn nhận lại quá trình

biểu hiện của ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong tiến trình văn học nghệ

thuật.

3.2. Vận dụng phương pháp hệ thống trong việc hệ thống hoá những quan

điểm về phái tính và nữ quyền, sự vận động và biểu hiện của ý thức phái tính và âm

hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại.

3.3. Vận dụng phương pháp so sánh, đối chiếu giữa các tác phẩm văn học

với các tài liệu về nhân chủng học, văn hoá học, tôn giáo, triết học, và giữa các tác

phẩm của nhà văn nam với nhà văn nữ… nhằm tìm ra tương quan đối ứng giữa

hoàn cảnh xã hội, nền tảng văn hoá, giai đoạn lịch sử đã tác động như thế nào đến

8

văn học trong phạm vi biểu hiện của ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong

sáng tác của một số tác giả nữ tiêu biểu.

3.4. Vận dụng phương pháp tiếp cận theo hướng thi pháp học nhằm làm sáng

tỏ những đặc điểm, dấu hiệu mang màu sắc phái tính và âm hưởng nữ quyền cả về

nội dung lẫn hình thức nghệ thuật trong sáng tác của một số cây bút nữ đương đại;

qua đó khẳng định những đóng góp riêng của họ trong tiến trình văn học Việt Nam.

3.5. Vận dụng phương pháp tiểu sử nhằm soi sáng một số luận điểm khi giải

quyết vấn đề về khuynh hướng tự truyện như một nét đặc thù của lối viết nữ trong

văn xuôi nữ đương đại.

3.6. Vận dụng phương pháp liên ngành làm cơ sở phương pháp luận cho đề

tài nghiên cứu, trong đó có Lý thuyết về giới (Giới học), Tâm lý học, Ngôn ngữ

học. Phương pháp tiếp cận tổng hợp, liên ngành sẽ giúp chúng tôi thấy được bản

chất tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm, tiến tới việc phân tích, lý giải những sáng tác

của các cây bút nữ đương đại.

4. Đóng góp của luận án

Luận án có những đóng góp mới sau đây:

4.1. Hệ thống và lý giải một cách cơ bản những vấn đề lý luận về phái tính

và nữ quyền trong văn hoá và trong diễn ngôn văn học.

4.2. Bước đầu chỉ ra được ý thức về phái tính và nữ quyền trong văn học

đương đại như một bước tiến/ hệ quả của tiến trình dân chủ hoá xã hội và văn học.

4.3. Luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho giới nghiên cứu văn học và

cho công tác giảng dạy về phái tính và nữ quyền trong văn học.

5. Cấu trúc luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội

dung của luận án được chúng tôi triển khai thành 04 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề phái tính và nữ quyền trong

văn xuôi Việt Nam đương đại

Chương 2: Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học truyền thống

9

Chương 3: Ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi của một số tác

giả nữ tiêu biểu từ sau năm 1975 dưới góc độ nội dung

Chương 4: Ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi của một số tác

giả nữ tiêu biểu từ sau năm 1975 dưới góc độ nghệ thuật

10

Chƣơng 1

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ PHÁI TÍNH VÀ

NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC

1.1. Giới thuyết về phái tính và nữ quyền

Hẳn nhiên, khi loài người biết phân biệt đàn ông và đàn bà thì ý niệm về phái

tính đã xuất hiện. Phái tính chỉ sự liên kết giữa giới và những bản tính đặc trưng

cho từng phái riêng biệt và nó không ngừng được nhận diện trong đời sống cũng

như trong tất cả các ngành khoa học. Trong hệ thuật ngữ liên quan đến phái tính,

chúng tôi tạm đưa ra công thức dịch: Phái tính = phái (gender) + giống/giới/giới

tính (sex). Như vậy, phái nam = nam giới (the male sex) + masculinity (tính

nam/bản tính nam); phái nữ = nữ giới (the fair sex) + femility (tính nữ/bản tính nữ).

Đến nay, trong từ điển tiếng Việt cũng như một số từ điển ngoại ngữ khác không hề

có một thuật ngữ nào với hàm nghĩa khái quát như thế. Mặc dù vậy, phái tính và ý

thức phái tính đã, đang và vẫn sẽ luôn hiện hữu trong mọi lĩnh vực của đời sống

con người.

1.1.1. Quan niệm truyền thống về phái tính

1.1.1.1. “Đàn bà được sinh ra từ chiếc xương sườn của đàn ông…”

Theo Kinh thánh, Thượng Đế sáng tạo ra thế giới trong vòng 7 ngày

với đủ biển cả, ao hồ, sông suối, chim muông. Trong ngày thứ 7, Người nghĩ thêm

ra một loài động vật mà Người cho là “sẽ hoàn hảo nhất trong các loại động vật”.

Và chàng Adam xuất hiện từ đó. Để tránh cho Adam khỏi buồn bã nơi vườn Địa

Đàng, Thượng Đế đã dùng một “cái xương sườn thừa của ông Adam” (do thiếu

nguyên liệu!) [1, tr.321] để tạo nên con người thứ hai là Eva làm bạn đồng hành.

Mắc lỗi lầm do ăn “trái cấm” ở vườn Địa Đàng, Adam và Eva bị Đấng tối cao đày

xuống mặt đất, bắt sống cuộc sống như những sinh vật khác (sẽ phải tự kiếm ăn, sẽ

già đi, sẽ bị bệnh tật rồi trở về với cát bụi). Và hình phạt lớn nhất mà Thượng đế

đặt lên Eva là hàng tháng sẽ phải mất đi một lượng máu từ trong cơ thể, sẽ phái

mang nặng, đẻ đau,…

11

Với những suy tư trên phương diện triết học, đại triết gia Aristote xác quyết

rằng đàn bà tự bản chất đã thấp kém hơn đàn ông. Aristote cho rằng đàn bà chỉ là

vật chất, phát triển một cách bừa bãi, hỗn loạn nếu không có đàn ông, nhờ có

những hạt giống của họ, mang đến cho các vật chất này hình thái, mặt mũi:

“Giống cái (female) là giống cái do thiếu thốn các đặc tính nào đó; chúng ta

nên xem bản tính giống cái như bị đau buồn vì sự khiếm khuyết tự nhiên” [1,

tr.321].

Kể từ sau Aristote, có rất nhiều triết gia, thần học gia, trí thức, văn sĩ,… đã

lặp đi lặp lại ý kiến trên như thể là một định đề toán học hay một định luật hóa học,

vật lý. Chính vì là “phần phụ”, “phần thừa ra” từ thân thể Adam nên các Eva luôn ở

thế lệ thuộc, phải phục tùng đàn ông, trở thành “phái yếu” (the weaker sex). Trải

qua bao thăng trầm của lịch sử, một nửa nhân loại tự mệnh danh là “phái mạnh”

(the stronger sex) đã xây dựng một mô hình xã hội theo sở thích, nhu cầu và quyền

lợi của riêng mình. Dĩ nhiên, trong cái trật tự và khuôn khổ của một xã hội theo

“hình ảnh người đàn ông” này thì không có chuyện bình quyền về phái tính. Phụ nữ

luôn là người chịu nhiều thiệt thòi, bị chèn ép, khinh miệt và bị bóc lột. Ở phương

Tây, tín đồ Do Thái không bao giờ khởi đầu một nghi lễ phụng tự khi xung quanh

chưa hội đủ bảy người đàn ông mặc dù có sự hiện diện của cả trăm ngàn người phụ

nữ tại đó; còn ở Pháp, chỉ cách đây vài thế kỷ, người phụ nữ thượng lưu vẫn còn bị

cột chặt trong cái “vòng đai trinh tiết”; và thậm chí ở một nước dân chủ tiên phong

như Hoa Kỳ thì quyền bầu cử của phụ nữ cũng chỉ được áp dụng từ đầu thể kỷ XX

mà thôi.

Sự phân biệt phái tính không chỉ tồn tại trong tư duy và trong đời sống xã hội

mà còn được thể hiện ngay trong ngôn ngữ. Nền văn hóa phương Tây được nhiều

nhà nghiên cứu đánh giá là nền văn hóa gia trưởng, trọng nam. Nền văn hóa ấy

được thể hiện rất rõ qua cấu trúc ngôn ngữ thông qua các cặp đối lập. Người ta có

thể thấy ngay một sự thật hiện hữu là ngôn ngữ chỉ phụ nữ phái sinh ngay trên bề

mặt, kết cấu ngôn ngữ chỉ nam giới. Trong tiếng Anh, chữ “man” vừa có nghĩa là

12

đàn ông vừa có nghĩa là nhân loại. “Man” là gốc, từ đó nảy sinh ra nhánh “woman”

(đàn bà); Mr (ông) là gốc, từ đó nảy sinh ra Mrs (bà); và cuối cùng, “male” (nam)

phái sinh “female” (nữ). Như vậy, khởi nguồn từ cặp nam – nữ, trong ngôn ngữ

châu Âu hình thành những cặp đối lập tương ứng như trật tự - hỗn loạn, hiển ngôn

– im lặng, hiện diện – vắng mặt, nói – viết, sáng – tối, lành mạnh – nguy hại, thuần

lý – phi lý,… trong đó tất cả những mỹ từ đều thuộc về đàn ông, dành cho đàn ông.

1.1.1.2. “Đàn bà và tiểu nhân thật khó nuôi dạy…”

Ở phương Đông, Khổng Tử và hàng ngàn lớp Nho gia kế tiếp vẫn một mực

khẳng định “nữ nhân nan hóa”. Họ cho rằng “đàn bà thật khó dạy” bởi quan niệm

người phụ nữ không có khả năng tiếp thu cái hay, cái mới và mặt khác rất khó bỏ

tính nết xấu. Đạo Khổng khoác lên người phụ nữ một cái áo cố hữu của bản chất

ngu dốt, thiếu năng lực và ý chí cầu tiến. “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”

cũng xuất hiện từ đó. Có lẽ vì vậy, trong hệ thống Nho giáo, người phụ nữ suốt đời

bị lệ thuộc và phải phục tùng. Nho giáo kìm chân người phụ nữ bên chiếc cối xay,

bên xó bếp sau những lũy tre làng bởi tam tòng tứ đức. Quan niệm trọng nam khinh

nữ theo thời gian, dần ăn sâu vào tâm thức người dân phương Đông. Thực tế, Nho

giáo không chỉ biến phụ nữ thành món đồ sở hữu của phái nam, trở thành những

“con ở” không công mà còn hạ thấp phẩm giá, năng lực của người phụ nữ bằng

những quy định hà khắc: không cho phép phụ nữ đi học, tham gia Khoa cử và đặc

biệt là không thể làm quan. Và như vậy, sự nông nổi, thấp kém, ngu muội, dốt nát

của đàn bà không phải là do yếu tố cá nhân mà nằm sâu ở vấn đề “phái tính”.

Sự phân biệt phái tính cũng được thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ phương

Đông. Nền văn hóa Âm – Dương này coi những gì thuộc Dương là đàn ông, còn

những gì thuộc Âm là phụ nữ. Những cặp từ phái sinh tương ứng như mặt trời- mặt

trăng, ngày – đêm, nóng – lạnh, lửa – nước, chủ động – bị động,… cũng chính là

kết quả của lối tư duy thống trị bởi nam giới.

1.1.2. Ý thức phái tính và sự xuất hiện của Chủ nghĩa nữ quyền

1.1.2.1. Ý thức về bản sắc nữ - khởi đầu của việc xác lập nữ quyền luận

13

Như chúng tôi đã đề cập ở trên, những quan niệm mang tính truyền thống về

phái tính ở cả phương Đông và phương Tây đã khiến cho người phụ nữ trở thành

kẻ lệ thuộc. Tư tưởng phụ nữ là “phái yếu”, là “kẻ phụ thuộc”, là những kẻ dốt nát,

ngu muội và “khó dạy” không phải chỉ là “cái tròng” mà chế độ nam quyền gắn vào

cổ những người phụ nữ, mà đôi khi do chính người phụ nữ công nhận, tự đặt nó lên

cổ mình. Không phải ngẫu nhiên mà ở trên tận thiên đàng, những người phụ nữ

phương Tây vẫn không dứt ra khỏi “nghiệp chướng” của đời mình là trở thành kẻ

phục vụ, phục tùng nam giới. Ở phương Đông, cũng không phải ngẫu nhiên mà

những luật lệ hà khắc của Nho giáo như những sợi dây vô hình siết chặt đời sống

người phụ nữ cả về thể xác lẫn tinh thần (Trung Quốc, Việt Nam,…) và rồi để cả

thế giới nhìn nhận và coi đức tính “tùng – thuận” là hình ảnh tiêu biểu, đặc trưng

của người phụ nữ (Nhật Bản).

Bước sang cuộc sống hiện đại, khi đa số phụ nữ đi làm, giá trị của người phụ

nữ dần dần tỉ lệ thuận với những đóng góp của họ về kinh tế, văn hóa đối với gia

đình và xã hội. Họ bắt đầu ý thức về bản thân mình, nhìn nhận lại mình và đi tìm

lại bản sắc.

Trong giới nghiên cứu hiện tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ

bản sắc. Bản sắc (identity) là một khái niệm quan trọng trong các ngành khoa học

xã hội nói chung. Tựu chung lại, người ta đưa ra hai cách hiểu phổ biến về bản sắc,

quy về việc giản hóa luận khái niệm này trong lĩnh vực tâm lý học hoặc xã hội học.

Trong cách hiểu thứ nhất, bản sắc được nhìn nhận như là một đặc tính cố

định của con người, có thể đồng nhất con người quá khứ với con người hiện tại và

tương lai.

Ngược lại, bản sắc trong cách hiểu thứ hai là một khái niệm linh động, nó

được nhìn nhận như là một thành quả con người đạt được trong quá trình xã hội

hóa hoặc toàn cầu hóa những nguyên tắc xã hội được áp đặt lên họ.

Các nhà nữ quyền luận đã tìm cách dung hòa cách hiểu hai khái niệm này.

Họ thừa nhận sự tương tác phức tạp giữa các quá trình tâm lý bên trong với những

14

tác động bên ngoài xã hội. Họ chú ý đến vấn đề phái tính, chủng tộc và đồng tính

luyến ái.

Công cuộc đi tìm bản sắc nữ kết thúc bằng lời khẳng định bất hủ của nữ văn

sĩ người Pháp Simone de Beauvoir trong tác phẩm “Le Deuxième Sexe” (Giới thứ

hai) được xuất bản vào năm 1949: “On ne nait pas femme, on le devient” (Người ta

không bẩm sinh là đàn bà, mà trở thành đàn bà). Theo nhiều nhà nghiên cứu thì tác

phẩm này chính là một mũi tên bắn trúng vào thành trì của bản thể luận cho rằng

“phụ nữ sinh ra đã là phụ nữ”. “Giới thứ hai” có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong

việc thúc đẩy sự phát triển của Chủ nghĩa nữ quyền trong xã hội hiện đại.

1.1.2.2. Ý thức về diễn ngôn của phụ nữ - một bước tiến của Chủ nghĩa nữ quyền

Có thể chia phong trào nữ quyền trên thế giới thành ba giai đoạn: Giai đoạn

thứ nhất được đánh dấu bằng sự kiện xảy ra vào tháng 10 năm 1789 khi một nhóm

phụ nữ xông vào trụ sở Quốc dân đại hội ở Paris, đòi quyền bình đẳng nam nữ ngay

sau khi Đại cách mạng Tư sản Pháp bùng nổ. Từ đó, nhiều phong trào đòi quyền

bình đẳng nam nữ diễn ra liên tiếp ở nhiều nơi trên thế giới cho đến tận đầu thế kỷ

XX. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến khoảng đầu thập kỷ 60 khi

các lý thuyết nữ quyền xuất hiện, phát triển sôi động và kết quả của nó là đại đa số

các nước trên thế giới đều xác định nam nữ bình quyền trong Hiến pháp. Giai đoạn

thứ ba là giai đoạn từ khoảng cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 đến nay với sự

phát triển mạnh mẽ của lý thuyết phê bình nữ quyền, đòi bình đẳng nam nữ trên

nhiều phương diện của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế đến văn học, nghệ thuật.

Trong văn học, các nhà nữ quyền thuộc “thế hệ thứ ba” đã cố gắng xác lập

những cách thức, phương pháp viết và đọc văn chương cho riêng phụ nữ. Barbara

Johnson cho rằng “Vấn đề giới tính thực chất là vấn đề ngôn ngữ” [36]. Trường

phái nữ quyền Anh – Mỹ thời kỳ này chú trọng đến nền văn chương của chính nữ

giới với việc đề cao người đọc, người viết là nữ giới và về nữ giới. Các nhà phê

bình nữ quyền luận Pháp lại chú ý đến vấn đề cấu trúc luận. Ở đó, họ tìm kiếm

những cách thức khả thể cho cách viết của nữ giới, đặt trọng tâm vào một lối viết

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!