Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Vấn đề miễn trừ tư pháp của cơ quan đại diện ngoại giao tại nước ngoài
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Nghiên cứu Quốc tế số 1 (88) Nghiên cứu - Trao đổi
3/2012 247 1 248 3/2012
VẤN ĐỀ MIỄN TRỪ TƯ PHÁP CỦA CƠ QUAN
ĐẠI DIỆN NGOẠI GIAO TẠI NƯỚC NGOÀI
Ths. Lý Vân Anh*
Tóm tắt
Vấn đề miễn trừ quốc gia là một trong những lĩnh vực còn nhiều
tranh cãi trong luật pháp quốc tế và các quy tắc, thực tiễn đã có nhiều
thay đổi theo thời gian. Trong lĩnh vực này, Luật quốc tế ban đầu phát
triển chủ yếu dưới hình thức tập quán. Từ giữa thế kỷ 20, trong khuôn
khổ Liên Hợp Quốc, các quốc gia bắt đầu xây dựng các Công ước quốc
tế có quy định về các quyền miễn trừ, trong đó có miễn trừ tư pháp, góp
phần từng bước pháp điển hóa tập quán quốc tế về lĩnh vực này.
Bài viết này chủ yếu tập trung vào phân tích những bước phát triển
và nội dung của Luật quốc tế về quyền miễn trừ tư pháp của cơ quan đại
diện ngoại giao với tư cách là đại diện cao nhất của quốc gia tại quốc
gia nước ngoài. Tuy nhiên, tác giả cũng dành một phần mô tả về sự tiến
triển và tình trạng hiện nay của Luật quốc tế về miễn trừ quốc gia nói
chung, trong bối cảnh thực tiễn và quan điểm của các quốc gia về vấn đề
này còn chưa thống nhất. Bài viết không đề cập tới vấn đề miễn trừ về
mặt hình sự do vấn đề này về bản chất sẽ khác với những gì sẽ được
phân tích trong bài viết.
* Giảng viên khoa Luật quốc tế, Học viện ngoại giao, hiện đang công tác tại Đại sứ quán
Việt Nam tại Cộng hòa Pháp.
Miễn trừ tư pháp là một trong các quy tắc về tố tụng được áp dụng
trong thủ tục tư pháp khi có tranh chấp xảy ra. Khi được viện dẫn trong
giai đoạn xét xử, miễn trừ tư pháp có thể dẫn tới việc Tòa không có thẩm
quyền đối với vụ tranh chấp, được gọi là miễn trừ xét xử,
1
hoặc quyền
này có thể được viện dẫn trong giai đoạn thi hành phán quyết của tòa,
được gọi là miễn trừ thi hành án.2
Trong Luật quốc tế, đối tượng được hưởng quyền miễn trừ tư pháp
rất đa dạng, trước hết phải kể đến Quốc gia. Cùng với sự phát triển của
Luật quốc tế, thực tiễn và tập quán quốc tế cũng từng bước hình thành
các quy tắc về miễn trừ đối với tổ chức quốc tế và các thực thể khác như
các vùng lãnh thổ, cá nhân (người đứng đầu quốc gia, người đại diện
quốc gia, viên chức ngoại giao, lãnh sự) và cơ quan (cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự và các cơ quan đại diện khác), với
phạm vi và mức độ rất khác nhau.
Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao (dưới đây gọi tắt
là CƯ Viên 1961) có một số quy định về quyền bất khả xâm phạm và ưu
đãi của cơ quan đại diện ngoại giao (CQĐD) (điều 22 về trụ sở, tài sản,
xe cộ của CQĐD; điều 24 về hồ sơ, tài liệu của CQĐD, điều 25, 27, 28
về các ưu đãi dành cho CQĐD).
Tuy nhiên, CƯ Viên 1961 không có quy định nào rõ ràng về quyền
miễn trừ tư pháp đối với CQĐD. Tương tự như vậy đối với các Công ước
có liên quan như CƯ Viên 1963 về quan hệ lãnh sự, CƯ năm 1969 về
CQĐD của quốc gia bên cạnh các tổ chức quốc tế có tính toàn cầu, CƯ
1 Trong giai đoạn này, bên cạnh miễn trừ xét xử, còn có thể viện dẫn miễn trừ các biện
pháp cưỡng chế để đảm bảo đơn kiện
2 The Redress Trust, Immunité contre Responsabilité : Etude de la Relation entre
Immunité des Etats et la responsabilité pour torture et autres graves crimes
internationales, The Redress Trust, 12/2005, tr. 19.
, 3/2012: 247-268.