Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
I/ KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1/Tranh chấp thương mại.
Hệ thống pháp luật Việt Nam đã từng tồn tại những khái niệm khác
nhau để biểu đạt loại tranh chấp này. Khái niệm tranh chấp thương mại lần
đầu tiên được đề cập trong Luật thương mại ngày 10/5/1997. Theo luật này
thì tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại ( Điều
238_Luật Thương mại 1997). Quan niệm về tranh chấp thương mại và hoạt
động thương mại và hoạt động thương mại theo Luật thương mại 1997 đã
loại bỏ nhiều tranh chấp không được coi là các tranh chấp thương mại, mặc
dù xét về bản chất hoàn toàn có thể coi là các tranh chấp thương mại trong
ngữ cảnh đương đại. Điều này đã tạo ra những xung đột pháp luật, giữa luật
quốc gia với luật quốc tế.
Pháp lệnh trọng tài thương mại ngày 25/2/2003 không trực tiếp đưa ra
định nghĩa về tranh chấp thương mại song với sự hiện diện của khái niệm
“hoạt động thương mại” theo nghĩa rộng đã tạo ra sự tương đồng trong quan
niệm về “thương mại” và “tranh chấp thương mại” của pháp luật Việt Nam
với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế. Theo Pháp lệnh
trọng tài thương mại, hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều
hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức khinh doanh bao gồm mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại lý thương mại; kí gửi;
thuê; cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài
chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò; khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành
khách bằng đường biển, đường hàng không, đường sắt, đường bộ và các
hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật (Điều 2 khoản 3 Pháp
lệnh trọng tài thương mại ngày 25/2/2003).
1
Luật thương mại được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 định nghĩa
khái niệm hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác (Điều 3 khoản 1 Luật thương
mại 2005). Khái niệm về hoạt động thương mại đã được mở rộng tương
đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật doanh nghiệp năm 1999 cũng như
Luật doanh nghiệp năm 2005.
Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 cũng đã liệt kê các tranh
chấp về kinh doanh, thương mại:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, gồm:
+ Mua bán hàng hóa;
+ Cung ứng dịch vụ;
+ Phân phối;
+ Đại diện, đại lý;
+ Ký gửi;
+ Thuê, cho thuê, thuê mua;
+ Xây dựng;
+ Tư vấn, kỹ thuật;
+ Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ
nội địa;
+ Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
+ Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
+ Đầu tư,tài chính, ngân hàng
+ Bảo hiểm;
+ Thăm dò, khai thác.
2
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể,
sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Như vậy Bộ luật tố tụng dân sự không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp
thương mại” mà sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về kinh doanh, thương mại”,
nhưng nội dung của các tranh chấp kinh doanh, thương mại đó thực chất là
các tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật thương mại năm
2005
Kết luận:
Như vậy có thể hiểu: Tranh chấp kinh doanh – thương mại là
những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa
các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại.
2/ Tranh chấp kinh doanh – thương mại phải hội đủ các yếu tố sau đây:
- Thứ nhất, tranh chấp kinh doanh – thương mại trước hết là
những mâu thuẫn (bất đồng) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong
mối quan hệ cụ thể.
- Thứ hai, những mâu thuẫn (bất đồng) đó phải phát sinh từ hoạt
động thương mại.
- Thứ ba,những mâu thuẫn (bất đồng) đó phát sinh chủ yếu giữa
các thương nhân.
II/ PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tồn tại bốn phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại cơ bản, bao gồm:
3
- Thương lượng
- Hòa giải
- Trọng tài thương mại
- Tòa án
1/ Thương lượng
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc
các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng
phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết
của bất kì bên thứ ba nào.
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm
nhất, thông dụng và phổ biến nhất được các bên tranh chấp áp dụng rộng rãi
để giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội, nhất là trong
hoạt động thương mại. Phương thức giải quyết tranh chấp này thường được
giới thương nhân lựa chọn mỗi khi có tranh chấp phát sinh, bởi sự đơn giản
của phương thức thực hiện, ít tốn kém, lại không bị ràng buộc bởi những thủ
tục pháp lí phức tạp, uy tín cũng như bí mật kinh doanh được bảo đảm tối đa
và mức độ phương hại đến mối quan hệ hợp tác giữa các bên cũng thấp,
thậm chí còn tăng cường sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau sau khi thương
lượng thành công.
Bản chất của thương lượng được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản
sau đây:
- Thứ nhất, phương thức giải quyết tranh chấp này được thể hiện
bởi cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên tranh chấp gặp nhau
bàn bạc, thoản thuận để tự giải quyết những bất đồng phát sinh mà
không cần có sự hiện diện của bên thứ ba để trợ giúp hay ra phán
quyết.
4