Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Ứng dụng gis và công nghệ viễn thám đánh giá biến động sử dụng đất huyện đức thọ - tỉnh hà tĩnh giai đoạn 2000 – 2010.
PREMIUM
Số trang
90
Kích thước
5.3 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1587

Ứng dụng gis và công nghệ viễn thám đánh giá biến động sử dụng đất huyện đức thọ - tỉnh hà tĩnh giai đoạn 2000 – 2010.

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KHOA ĐỊA LÝ

----------

ĐẬU XUÂN THUẬN

Ứng dụng GIS và công nghệ viễn thám

đánh giá biến động sử dụng đất huyện Đức

Thọ - tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2000 – 2010

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

CỬ NHÂN KHOA HỌC

2

PHẦN 1: MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đất đai là tài nguyên vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi

quốc gia. Một trong những chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của mỗi quốc gia đôi khi còn

được tính theo mức độ biến động trong quá trình sử dụng đất của quốc gia đó.

Với sức ép của quá trình gia tăng dân số (cả tự nhiên và cơ học), kết hợp với sử

dụng đất đai thiếu bền vững đã gây sức ép lớn lên quá trình sử dụng đất. Vì vậy nghiên

cứu sự thay đổi trong quá trình sử dụng đất là căn cứ khoa học để đưa ra những chính

sách sử dụng đất đai phù hợp nhằm nâng cao mức sống của người dân, đem lại hiệu quả

cao hơn cả về kinh tế - xã hội và môi trường.

Huyện Đức Thọ là một huyện đồng bằng, bán sơn địa nằm về phía Bắc tỉnh Hà

Tĩnh, trong những năm qua với sự chuyển mình mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa

- hiện đại hóa, bộ mặt của huyện thay đổi nhanh chóng theo hướng giảm diện tích đất

nông nghiệp, tăng diện tích đất phi nông nghiệp chủ yếu là đất sử dụng vào mục đích

công nghiệp và dịch vụ. Trong những năm gần đây, công tác quản lý về đất đai nói

riêng và tình hình thực hiện Pháp Luật đất đai trên địa bàn huyện đã bắt đầu đi vào nề

nếp. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan công tác cập nhật

biến động đất đai chưa tốt, chưa kịp thời; cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ cho công

tác chưa đầy đủ, đồng bộ, đa số còn lạc hậu; trình độ, năng lực cán bộ làm công tác

quản lý đất đai ở các cấp còn chưa cao, nhất là cán bộ địa chính cơ sở.

Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vũ trụ thì ảnh viễn thám cũng đã xuất

hiện và ngày càng tỏ rõ tính ưu việt trong công tác điều tra, quản lý tài nguyên. Đặc biệt

là sự xuất hiện của các tư liệu viễn thám mới như: SPOT, LANDSAT, ASTER… có độ

phân giải không gian và phân giải phổ cao. Một số tư liệu viễn thám còn có khả năng

chụp lập thể, đặc biệt là có thể cập nhật thông tin nhanh chóng thông qua việc thu nhận

và xử lý ảnh vệ tinh ở nhiều thời điểm khác nhau tạo thành ảnh đa thời gian ở dạng số,

là sản phẩm dễ dàng sử dụng trong các phần mềm phân tích ảnh hiện đại và có khả

năng tích hợp thuận tiện trong hệ thống thông tin địa lý GIS. Đặc biệt việc phóng vệ

tinh VINASAT-1 đầu tiên vào ngày 12/4/2008, đã mở ra một hướng đi mới trong ứng

dụng ảnh viễn thám ở Việt Nam.

Nhận thức được tầm quan trọng của sự thay đổi trong quá trình sử dụng đất với

sự thay đổi khí hậu và chất lượng của cuộc sống, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài:

“Ứng dụng GIS và công nghệ viễn thám đánh giá biến động sử dụng đất huyện

Đức Thọ - tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2000 – 2010”.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Ứng dụng công nghệ viễn thám và hệ thống thông tin địa lý để đánh giá biến

động sử dụng đất huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2000 – 2010. Xác định

3

nguyên nhân biến động và đề xuất một số giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả quỹ đất

hiện có.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài tập trung thực hiện những nhiệm vụ chính sau:

- Khái quát được điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của huyện Đức

Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

- Tìm hiểu tình hình ứng dụng viễn thám trong nghiên cứu biến động ở thế giới,

Việt Nam và huyện Đức Thọ.

- Thu thập tài liệu thống kê, bản đồ và tư liệu ảnh viễn thám vùng nghiên cứu. Xử

lý các dữ liệu ảnh viễn thám một số thời điểm chụp vùng nghiên cứu.

- Thành lập bản đồ, bảng biểu và biểu đồ về hiện trạng sử dụng đất và bản đồ biến

động giữa hai thời điểm ở huyện Đức Thọ.

- Thành lập bản đồ biến động sử dụng đất giai đoạn 2000 – 2005, 2005 - 2010.

- Đánh giá biến động và đề ra một số giải pháp.

4. Lịch sử nghiên cứu

4.1. Trên thế giới

Việc sử dụng kỹ thuật viễn thám trên thế giới đã xuất hiện từ rất lâu. Kể từ năm

1858, người ta đã bắt đầu sử dụng khinh khí cầu để chụp ảnh nhằm mục đích

thành lập bản đồ địa hình và những bức ảnh đầu tiên chụp từ máy bay đã được Wilbur

Wright thực hiện năm 1909 trên vùng Centocelli, Italia. Ban đầu, người ta sử dụng

viễn thám chủ yếu cho mục đích quân sự. Khi vệ tinh Landsat-1 được phóng vào năm

1972, những ứng dụng của viễn thám trong lĩnh vực giám sát môi trường và quản lí

tài nguyên thiên nhiên đã trở nên khá phổ biến và trở thành một phương pháp rất

hiệu quả trong việc cập nhật thông tin của một vùng hay toàn lãnh thổ.

Ngày nay, viễn thám được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các lĩnh vực từ theo dõi

dự báo thời tiết, điều tra hiện trạng môi trường, giám sát biến động lớp phủ mặt

đất, xói mòn đất, trong nghiên cứu địa chất, nuôi trồng thủy sản, cho đến việc

nghiên cứu hải dương học…Đối với công tác quy hoạch và quản lý đất đai, viễn thám

là một công cụ hữu ích giúp xác định nhanh chóng và chính xác hiện trạng sử dụng

đất, đồng thời xác định sự biến động của các loại hình sử dụng theo thời gian.

Có nhiều công trình nghiên cứu về đất đai và chức năng của nó từ rất sớm, trong

đó các công trình nghiên cứu của Tổ chức nông lương thế giới (FAO) được chú ý và

áp dụng rộng rãi. Theo FAO, con người có thể tác động đến các hợp phần của tự

nhiên, làm ảnh hưởng tới động thái riêng của chúng theo hướng cải thiện chất lượng

của đất cho một hoặc nhiều chức năng. Tuy nhiên, tác động này nếu không phù

hợp với quy luật tự nhiên sẽ gây ảnh hưởng xấu cho đất, làm tổn hại tới môi

trường.

4

Năm 1998, tổ chức American Planning Association đã đưa ra bảng hệ thống phân

loại sử dụng đất được mã hóa thành các kí hiệu thống nhất gọi là “Land-based

classification standards”(LBCS).

Công trình “Λ land-use and land cover classification system for use with remote

sensor data” của James R.Anderson, Ernest E.Hardy, John T.Roach và Richard

E.Witmer năm 2001 đã đưa ra hệ thống phân loại sử dụng đất bằng công nghệ viễn

thám và định nghĩa rất rõ ràng từng loại hình sử dụng đất và ứng dụng vào xây

dựng một số bản đồ cụ thể.

Việc sử dụng kĩ thuật viễn thám trong nghiên cứu hiện trạng sử dụng đất và lớp

phủ mặt đất đã được áp dụng tại rất nhiều trường đại học và các viện nghiên cứu trên

thế giới, và thực tế đã đem lại nhiều thành tựu to lớn. Ở Hoa Kì, ứng dụng này được

bắt đầu kể từ năm 1976. Tại các quốc gia châu Âu như Pháp, Đức, Hà Lan…hướng

nghiên cứu này cũng trở nên phổ biến trong các thập niên 80, 90 của thế kỉ 20 và

hiện nay cũng đang phát triển mạnh. Ngày nay, các nước châu Á và châu Phi cũng

đã bắt đầu đi sâu vào nghiên cứu hiện trạng sử dụng đất và lớp phủ mặt đất bằng

công nghệ viễn thám và GIS. Có thể kể ra một số công trình như:

- Công trình “Change detection in land use and land cover using remote

sensing and GIS” của Opeyemi Zubair, trường đại học Ibadan:

- Đề tài “A comparison of land use and land cover change detection method” của

nhóm tác giả Daniel L.Civco, Jame D.Hurd, Emily H.wilson, Mingjun Song, Zhenkui

Zhang, đại học Connecticut:

4.2. Ở Việt Nam

Năm 1979- 1980, các cơ quan của nước ta bắt đầu tiếp cận công nghệ viễn

thám. Trong 10 năm tiếp theo (1980-1990), đã triển khai các nghiên cứu - thử nghiệm

nhằm xác định khả năng và phương pháp sử dụng tư liệu viễn thám để giải quyết các

nhiệm vụ của mình.

Từ những năm 1990-1995, bên cạnh việc mở rộng công tác nghiên cứu - thử

nghiệm, nhiều ngành đã đưa công nghệ viễn thám vào ứng dụng trong thực tiễn và cho

đến nay đã thu được một số kết quả rõ rệt về khoa học - công nghệ và kinh tế. Khi bộ

môn viễn thám được đưa vào giảng dạy ở các trường đại học, một số tác giả đã biên

soạn các giáo trình cơ sở về viễn thám như: “Viễn thám” của Lê Văn Trung, “Cơ sở

viễn thám” của Nguyễn Ngọc Thạch.

Năm 1997, Tác giả Nguyễn Hoàng Đan đã tiến hành đánh giá tài nguyên đất đai

vùng Trung du và miền núi phía Bắc bằng kĩ thuật viễn thám và hệ thông tin địa lý

- Công trình “Khả năng phối hợp hệ xử lí ảnh số và hệ thông tin địa lý nhằm

nâng cao chất lượng thành lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất” của Phạm Quang Vinh

năm 2005.

5

Trong dự án xây dựng bản đồ địa hình phủ trùm ở tỷ lệ 1: 50.000, bằng công

nghệ hiện chỉnh bản đồ theo ảnh vệ tinh SPOT, đã tiến hành thực hiện cho 2 vùng lãnh

thổ có ý nghĩa quan trọng là đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ, với số lượng

133 mảnh bản đồ VN 2000 trên tổng số 569 mảnh phủ trùm cả Việt Nam trong một

khoảng thời gian rất ngắn.

- Ứng dụng công nghệ viễn thám để quản lý dải ven biển

Mục tiêu của dự án nhằm tăng cường năng lực cho Trung tâm Viễn thám trong

việc ứng dụng công nghệ viễn thám để thành lập bản đồ phục vụ công tác quản lý dải

ven biển, nhằm góp phần hỗ trợ Việt Nam trong công tác quản lý và phát triển bền

vững dải ven biển.

Đối với Hà Tĩnh nói chung, Đức Thọ nói riêng việc ứng dụng viễn thám vẫn còn

rất ít. Việc nghiên cứu biến động sử dụng đất trên địa bàn huyện từ trước đến nay vẫn

làm theo phương pháp truyền thống, tức là dựa vào số liệu kiểm kê của các địa

phương. Như vậy, đề tài này vẫn còn mới và chưa có ai nghiên cứu.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5.1. Đối tượng nghiên cứu

- Ảnh viễn thám Landsat ETM+ có độ phân giải 30 x 30m chụp khu vực huyện

Đức Thọ - tỉnh Hà Tĩnh vào ngày 6/6/2000, ảnh Landsat TM chụp ngày 3/9/2006 và

ảnh Landsat TM chụp vào ngày 9/7/2010.

- Phần mềm xử lý và giải đoán ảnh viễn thám ENVI 4.5 cùng với sự hỗ trợ của các

phần mềm như Mapinfo 11.0, Microstation, ArcGIS 9.3,…. .

- Bản đồ hiện trạng sử dụng đất, các loại đất chính, bảng biểu và các tài liệu liên

quan đến huyện Đức Thọ.

5.2. Phạm vi nghiên cứu

5.2.1. Phạm vi không gian

Khu vực nghiên cứu nằm trong phạm vi huyện Đức Thọ, Tỉnh Hà Tĩnh gồm có 28

đơn vị hành chính (1 thị trấn và 27 xã). Tổng diện tích đất tự nhiên 20243,34 ha.

5.2.2. Phạm vi thời gian

Đề tài được nghiên cứu trong khoảng thời gian từ tháng 11/2012 đến tháng 5/2013.

5.2.3. Phạm vi nội dung

- Ứng dụng GIS và viễn thám đánh giá biến động sử dụng đất huyện Đức thọ - tỉnh

Hà Tĩnh giai đoạn 2000-2010.

- Phân tích nguyên nhân và đưa ra một số giải pháp nhằm sử dụng hợp lý quỹ đất

hiện có.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

6.1.Ý nghĩa khoa học

6

- Đề tài khẳng định khả năng nâng cao độ chính xác nghiên cứu biến động sử

dụng đất bằng công nghệ viễn thám và GIS.

- Cung cấp phương pháp sử dụng công nghệ GIS và giải đoán ảnh viễn thám để

xây dựng các loại bản đồ.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Xây dựng bản đồ biến động sử dụng đất tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh để

cung cấp cho những người làm chính sách xây dựng vùng quy hoạch sử dụng đất phù

hợp.

- Xây dựng cơ sở dữ liệu nhằm định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên đất huyện

Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

7. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu

7.1. Quan điểm nghiên cứu

7.1.1. Quan điểm hệ thống

Quan điểm hệ thống thể hiện ở chỗ là các yếu tố sử dụng đất có quan hệ với nhau.

Lãnh thổ nghiên cứu không chỉ là một hệ thống động lực với các mối liên hệ thống

nhất bên trong mà đây còn là một bộ phận của Bắc Trung Bộ.

7.1.2. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh

Đặc điểm sử dụng đất được xác lập trên một nền tảng chính trị - xã hội cụ thể. Sự

thay đổi hướng sử dụng và khai thác lãnh thổ phản ánh sự lựa chọn của con người phù

hợp với quỹ đất, nhu cầu của thị trường, trình độ nhận thức về chức năng của đất đai,

sự thay đổi thể chế chính trị, sự thay đổi về quan hệ sản xuất cũng như phương thức

sản xuất. Do vậy, chúng ta cần phải tìm hiểu các loại hình sử dụng đất trong bối cảnh

lịch sử của nó. Trên cơ sở đó, ta có thể đưa ra dự báo trong tương lai.

7.1.3. Quan điểm tổng hợp

Các đơn vị đất đai như những địa tổng thể thường được sử dụng để nghiên cứu,

đánh giá các điều kiện tự nhiên cho mục đích sử dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ

thiên nhiên. Các hợp phần hình thành nên cấu trúc sử dụng đất đều nằm trong một mối

quan hệ thông qua các lợi ích về kinh tế - xã hội và môi trường. Nên quan điểm nghiên

cứu, đánh giá chúng phải là quan điểm tổng hợp.

7.1.4. Quan điểm phát triển bền vững

- Theo FAO, phát triển bền vững là sự khai thác sử dụng tài nguyên để thỏa mãn

nhu cầu của con người hôm nay mà không làm tổn hại đến cuộc sống của các thế hệ

mai sau, là sự chung sống hòa bình giữa thiên nhiên và con người.

- Dưới góc độ sản xuất, đất đai là nguồn tài nguyên có hạn nên việc sử dụng đất

càng phải tuân theo quan điểm phát triển bền vững. Dưới góc độ là tư liệu sinh hoạt,

địa bàn định cư của con người thì việc sử dụng đất phải tạo nên một không gian đảm

bảo các chỉ số phát triển bền vững.

7

7.2. Các phương pháp nghiên cứu

7.2.1. Phương pháp thu thập dữ liệu

Nguồn dữ liệu ảnh vệ tinh đầu vào là vô cùng quan trọng, nó quyết định đến độ

chính xác của quá trình thực hiện. Do vậy, đề tài lựa chọn những ảnh có chất lượng tốt

và thời điểm chụp phù hợp nhất. Ảnh viễn tinh được thu nhận là ảnh Landsat ETM+

có độ phân giải trung bình (30m x 30m).

Ngoài ra, các nguồn dữ liệu thống kê, bản đồ (bản đồ nền, bản đồ hiện trạng sử

dụng đất thời điểm trước) của khu vực nghiên cứu sẽ hỗ trợ cho việc giải quyết những

nhiệm vụ đặt ra.

7.2.2. Phương pháp viễn thám

Để thực hiện các nhiệm vụ của đề tài đặt ra, đề tài đã sử dụng kết hợp phương

pháp viễn thám với GIS. Phương pháp viễn thám được sử dụng để phân loại ảnh vệ

tinh Landsat. Các chức năng phân tích không gian của GIS được sử dụng để tích hợp

các kết quả phân loại ảnh vệ tinh với dữ liệu bản đồ, dữ liệu thống kê thu thập được.

Việc đánh giá biến động được tiến hành sau phân loại với sự trợ giúp của GIS.

7.2.3. Phương pháp thống kê

Trong quá trình thực hiện đề tài, việc thống kê kết quả sau khi phân loại sẽ cho ta

cái nhìn toàn diện và cụ thể hiện trạng sử dụng đất ở các thời điểm. Trên cơ sở đó, ta

phân tích để thấy được tình hình biến động sử dụng đất của khu vực nghiên cứu.

7.2.4. Phương pháp bản đồ

Để thể hiện một cách trực quan hiện trạng sử dụng đất các thời điểm và biến

động sử dụng đất bằng các bản đồ ở tỉ lệ phù hợp.

7.2.5. Phương pháp thực địa

Trong quá trình nghiên cứu tôi tiến hành đi thực địa ở khu vực nghiên cứu nhằm

thu thập tài liệu để xây dựng mẫu phân loại và kiểm tra độ chính xác của ảnh viễn

thám tại thời điểm chụp. Thực hiện thực địa bao gồm các ghi chép và ảnh chụp thực

địa về hiện trạng sử dụng đất.

8

PHẦN 2: NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Đất đai và biến động đất đai

1.1.1. Định nghĩa về đất đai

Tài nguyên đất được hiểu theo hai quan điểm: Quan điểm phát sinh thổ nhưỡng

(Đất = soils) và quan điểm kinh tế học (Đất đai = Lands). Về quan điểm phát sinh thổ

nhưỡng, người đặt cơ sở khoa học đầu tiên cho khoa học đất chính là nhà thổ nhưỡng

học người Nga Dokuchaev. Dokuchaev cho rằng đất (soil) là thực thể tự nhiên đặc

biệt, hình thành do tác động tổng hợp của các yếu tố: Đá mẹ, khí hậu, địa hình, sinh

vật (chủ yếu là thực vật), thời gian và tác động của con người (V.V.Dokuchaev 1879).

Theo định nghĩa của FAO năm 1976 thì đất đai là một diện tích cụ thể của bề

mặt Trái Đất bao gồm các thành phần của môi trường vật lý và sinh học có ảnh hưởng

đến việc sử dụng đất như: Khí hậu, địa hình, đất, nước và sinh vật. Nó cũng bao gồm

các kết quả của các hoạt động của con người trong quá khứ và hiện tại, chẳng hạn như

sự khai phá vùng biển, sự khai hoang các vùng thực vật, cũng như sự mặn hóa các

vùng đất. Như vậy, khi xem xét đất đai, thực chất là chúng ta đang xem xét một thể

tổng hợp tự nhiên.

Theo Luật đất đai của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đất đai đựợc

định nghĩa như sau: “Đất đai là một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên vô

cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi

trường sống, là địa bàn tiến hành các hoạt động sản xuất, xây dựng, kinh tế, văn hóa,

xã hội, an ninh và quốc phòng”.

1.1.2. Định nghĩa biến động đất đai

1.1.2.1. Biến động

Biến động là sự biến đổi, thay đổi, thay thế trạng thái này bằng một trạng thái

khác của sự vật, hiện tượng tồn tại trong môi trường tự nhiên cũng như trong môi

trường xã hội.

Có nhiều loại biến động như sau:

- Biến động về chất dẫn tới biến động về lượng và ngược lại biến động về lượng

dẫn đến biến đổi về chất.

- Biến động về diện tích đối tượng, biến động về số lượng đối tượng.

- Biến động về tính chất đối tượng song không có biến động về diện tích.

Ở đề tài này chúng ta chỉ sử dụng khái niệm biến động thứ hai là biến động về diện

tích đối tuợng, biến động về số lượng đối tượng.

1.1.2.2. Biến động sử dụng đất

Biến động sử dụng đất là sự thay đổi tăng hay giảm về diện tích đối tượng

nào đó trong một giai đoạn nhất định.

9

Nguyên tắc sử dụng ảnh Viễn thám để theo dõi biến động.

- Các ảnh sử dụng để theo dõi biến động một khu vực, phải ở cùng một hệ

tọa độ lưới chiếu.

- Ảnh phải có độ phân giải như nhau.

Ảnh có độ phân giải càng cao thì các đối tượng phản xạ càng mạnh, thông tin về

các đối tượng thực phủ càng chi tiết hơn và ngược lại. Vì vậy ảnh có cùng độ phân

giải các đối tượng thực phủ sẽ cho phản xạ gần như nhau. Và khi đó chồng lớp đối

tượng trên hai ảnh cho kết quả biến động chính xác hơn.

- Ảnh phải được phân tích giải đoán ở các bước sóng như nhau.

Theo nguyên lý Viễn thám, thông tin Viễn thám thu nhận được dựa vào sự đo

lường năng lượng phản xạ, bức xạ sóng điện từ của vật thể trên những bước sóng

xác định. Các đối tượng sẽ cho những phản xạ khác nhau trên cùng một bước sóng

và một đối tượng sẽ cho phản xạ mạnh yếu khác nhau trên các bước sóng khác nhau.

Nếu như giải đoán hai ảnh ở những bước sóng khác nhau kết quả phân loại có độ

chính xác là không như nhau và khi đó không thể cho kết quả biến động chính xác.

- Khu vực nghiên cứu của ảnh phải như nhau.

Hai ảnh phải được chụp trên cùng một khu vực hoặc được cắt theo ranh giới

hành chính của khu vực nghiên cứu.

1.1.3. Các khái niệm về sử dụng đất và lớp phủ đất

Lớp phủ đất (land-cover) và sử dụng đất (land-use) là hai khái niệm khác nhau về

ý nghĩa bản chất.

Burley (1961) định nghĩa “Lớp phủ đất là sự mô tả những cấu trúc thực vật và

nhân tạo bao phủ lên mặt đất”. Còn Clawson và Stewart (1965) định nghĩa: “Sử dụng

đất phản ánh những hoạt động của con người trên đất, những hoạt động liên quan trực

tiếp đến đất đó”.

Trong định nghĩa của Young, “Lớp phủ đất là các cấu trúc thực vật – tự nhiên

hoặc được trồng, hoặc các công trình nhân tạo bao phủ lên bề Trái Đất” còn “Sử dụng

đất là quản lý đất nhằm thảo mãn nhu cầu của con người”

Như vậy, sử dụng đất mô tả các hoạt động sử dụng của con người trên mảnh đất

đó, còn lớp phủ đất mô tả các thuộc tính vật lý của lớp phủ bề mặt. Lớp phủ đất đặc

biệt nhấn mạnh về các chủ thể tự nhiên và nó là phản xạ tổng hợp của những yếu tố

khác nhau trên bề mặt trái đất được phủ bằng vật thể tự nhiên hay công trình nhân tạo.

Sử dụng đất nhấn mạnh hơn về chủ thể xã hội, đó là kết quả của các hoạt động mà con

người thu nhận được bằng những đo đạc sinh học, công nghệ để quản lý và điều chỉnh

thường xuyên hay định kỳ phù hợp với mục đích kinh tế và xã hội đã định.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!