Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, 1948
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Lời giới thiệu | 1
.
TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ
NHÂN QUYỀN, 1948
2 | TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN 1948
Lời giới thiệu | 3
.
Gudmundur Alfredsson & Asbjørn Eide
(Chủ biên)
TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ
NHÂN QUYỀN, 1948
Mục tiêu chung của nhân loại
T H E U N I V E R S A L D E C L A R A T I O N O F H U M A N
R I G H T S :
A C O M M O N S T A N D A R D O F A C H I E V E M E N T
NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG - XÃ HỘI
4 | TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN 1948
CHỦ BIÊN:
Gudmundur Alfredsson (Viện Raul Wallenberg, Lund, Thụy Điển)
Asbjørn Eide (Viện Nhân quyền Na Uy, Oslo, Na Uy)
NGƢỜI DỊCH:
Hoàng Hồng Trang
Nguyễn Hải Yến
Nguyễn Thị Xuân Sơn
HIỆU ĐÍNH:
Lã Khánh Tùng
Vũ Công Giao
Cuốn sách này được xuất bản trong khuôn khổ Chương trình Quản trị Nhà nước
và Cải cách hành chính - trụ cột Quản trị Nhà nước, hợp phần 3 - hợp tác giữa Việt
Nam và Đan Mạch giai đoạn 2007 – 2011.
This book is developed in the Good Governance and Public Administration
Reform Programme - Governance Pillar, component 3 – between Vietnam and
Denmark 2007 – 2011.
Lời giới thiệu | 5
.
LỜI GIỚI THIỆU
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm
1948 có vị trí đặc biệt trong luật quốc tế về nhân quyền. Tuyên ngôn là nền tảng cho
hai công ước cơ bản về nhân quyền cùng được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông
qua vào năm 1966 cũng như các văn kiện quốc tế khác về nhân quyền trong nhiều
lĩnh vực được thông qua sau đó. Nhiều văn kiện quốc tế về nhân quyền của các tổ
chức liên chính phủ khu vực cũng dẫn chiếu đến Tuyên ngôn. Dù có những đánh giá
khác nhau, tuy nhiên, cộng đồng quốc tế đa số đồng ý rằng Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân quyền là một văn kiện lịch sử, là nguồn cảm hứng bất tận cho các hoạt động
bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trên thế giới.
Cho đến nay, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền, tiếp cận dưới nhiều góc độ như tư tưởng, lịch sử, chính trị, pháp lý… Ngoài
cuốn sách này, một số tác phẩm tiêu biểu khác có thể kể như: “A World Made New:
Eleanor Roosevelt and the Universal Declaration of Human Rights” của Mary Ann
Glendon (Random House, 2002), “The Universal Declaration of Human Rights:
Origins, Drafting, and Intent” của Johannes Morsink (University of Pennsylvania
Press - Pennsylvania Studies in Human Rights, 2000), “Inventing Human Rights: A
History” của Lynn Hunt (W. W. Norton and Company, 2007), “Universal Human
Rights: Origins and Development” của Stephen James (LFB Scholarly Publishing,
2007)…
Thời gian qua, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nỗ lực biên soạn và biên
dịch một số giáo trình, sách và tư liệu phục vụ việc nghiên cứu và giảng dạy môn học
Lý luận và Pháp luật về Nhân quyền. Chúng tôi nhận thấy ở Việt Nam, Tuyên ngôn
Quốc tế Nhân quyền dù đã được dịch và giới thiệu từ lâu trong các tuyển tập văn kiện
quốc tế về nhân quyền do nhiều cơ quan, tổ chức xuất bản, nhưng đến nay chưa có
một công trình nào đi sâu nghiên cứu toàn diện về các điều khoản của Tuyên ngôn.
Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn và tổ chức dịch cuốn “Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền: mục tiêu chung của nhân loại” (The Universal Declaration of Human Rights:
A Common Standard of Achievement) (có thể dịch sát nghĩa là Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân quyền: một chuẩn mực chung cần đạt được, cụm từ này được trích từ Lời nói
đầu của Tuyên ngôn) do hai tác giả Gudmundur Alfredsson (Viện Luật nhân quyền
và nhân đạo Raul Wallenberg, Lund, Thụy Điển) và Asbjørn Eide (Viện Nhân quyền
6 | TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN 1948
Na Uy, Oslo, Na Uy) chủ biên, Nhà xuất bản Martinus Nijhoff xuất bản vào năm
1999. Đây là một công trình được đóng góp bởi nhiều học giả và nhiều nhà hoạt động
thực tiễn nổi tiếng trong lĩnh vực nhân quyền. Cho dù thời gian xuất bản đã cách đây
khá lâu (nhân dịp kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn ra đời), nhưng các phân tích về tính
pháp lý và bối cảnh lịch sử mà các tác giả đưa ra trong cuốn sách này vẫn còn nguyên
giá trị.
Cuốn sách bao gồm các bài viết của các tác giả, cá nhân hoặc theo nhóm, phân
tích từng điều khoản của Tuyên ngôn (từ Điều 1 đến Điều 30). Mỗi bài viết thường
bao gồm các mục: Giới thiệu khái quát; Quá trình soạn thảo điều luật trong bối cảnh
chung của việc soạn thảo Tuyên ngôn; Các chuẩn mực quốc tế liên quan; Các chuẩn
mực khu vực (châu Âu, châu Mỹ, châu Phi...); Một số khía cạnh liên quan khác. Do
các bài viết đều có phần nội dung đề cập đến lịch sử soạn thảo, có một số nội dung
nhất định bị trùng lặp.
Để tiện cho việc theo dõi của bạn đọc, chúng tôi bổ sung một số thông tin về danh
sách các thành viên của Ủy ban soạn thảo Tuyên ngôn, tóm tắt quá trình soạn thảo
Tuyên ngôn... ở phần Phụ lục cuối sách.
Chúng tôi trân trọng cảm ơn Giáo sư Gudmundur Alfredsson và Nhà xuất bản
Martinus Nijhoff đã hỗ trợ về bản quyền trong việc dịch sang tiếng Việt. Bản dịch
được hoàn tất nhờ sự tham gia nhiệt tình và hiệu quả của các dịch giả Hoàng Hồng
Trang, Nguyễn Hải Yến, Nguyễn Thị Xuân Sơn, Nghiêm Kim Hoa... Khoa Luật cũng
trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đối với chính phủ và nhân dân Đan Mạch, các chuyên
gia Đan Mạch đã và đang hỗ trợ chúng tôi về nhiều mặt trong Chương trình Quản trị
Nhà nước và Cải cách Hành chính - trụ cột Quản trị Nhà nước, hợp phần 3 - hợp tác
giữa Việt Nam và Đan Mạch giai đoạn 2007 – 2011.
Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc. Quý vị có thể liên lạc với
nhóm dịch giả theo địa chỉ: [email protected].
Tháng 11 năm 2010
KHOA LUẬT – ĐẠI HỌC QUỐC GI A HÀ NỘI
Lời giới thiệu | 7
.
MỤC LỤC
Lời giới thiệu .......................................................................................................... 5
Giới thiệu chung ..................................................................................................... 9
Nguồn gốc của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền................................................ 21
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền: quá trình soạn thảo bắt đầu như thế nào ........ 40
Lời nói đầu của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền ............................................... 43
Điều 1 ............................................................................................................... 57
Điều 2 ............................................................................................................... 91
Điều 3 ............................................................................................................. 105
Điều 4 ............................................................................................................. 118
Điều 5 ............................................................................................................. 134
Điều 6 ............................................................................................................. 158
Điều 7 ............................................................................................................. 164
Phụ lục 1............................................................................................................. 178
Phụ lục 2............................................................................................................. 182
Điều 8 ............................................................................................................. 199
Điều 9 ............................................................................................................. 220
Điều 10 ........................................................................................................... 233
Điều 11 ........................................................................................................... 248
Điều 12 ........................................................................................................... 259
Điều 13 ........................................................................................................... 274
Điều 14 ........................................................................................................... 288
Điều 15 ........................................................................................................... 304
Điều 16 ........................................................................................................... 330
Điều 17 ........................................................................................................... 360
Điều 18 ........................................................................................................... 379
Điều 19 ........................................................................................................... 394
8 | TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN 1948
Điều 20 ........................................................................................................... 416
Điều 21 ........................................................................................................... 430
Điều 22 ........................................................................................................... 451
Điều 23 ........................................................................................................... 486
Điều 24 ........................................................................................................... 508
Điều 25 ........................................................................................................... 520
Điều 26 ........................................................................................................... 548
Điều 27 ........................................................................................................... 572
Điều 28 ........................................................................................................... 595
Điều 29 và 30.................................................................................................. 629
Quyền khiếu nại: Nghị quyết 217B của Đại hội đồng........................................ 650
Việc không quy định quyền của người thiểu số trong Nghị quyết 217C (III).... 694
Phổ biến Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền: Nghị quyết 217D (III)................... 717
Quyền con người trên mạng điện tử: Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
và các nguồn thông tin điện tử....................................................................... 735
Danh mục các từ viết tắt ..................................................................................... 740
Danh mục tài liệu tham khảo.............................................................................. 741
Danh sách các tác giả.......................................................................................... 769
Danh mục viết tắt................................................................................................ 772
Phụ lục: Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, 1948............................................... 774
Universal Declaration of Human Rights............................................................. 781
Các thành viên Ủy ban soạn thảo tuyên ngôn..................................................... 788
Thời gian tổ chức các cuộc họp .......................................................................... 794
Chi tiết các cuộc họp và tài liệu liên quan.......................................................... 795
Giới thiệu chung | 9
GIỚI THIỆU CHUNG
Asbjørn Eide và Gudmundur Alfredsson
Logo kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (1948 – 2008)
Ngày 10 tháng 12 năm 1998 đánh dấu 50 năm ngày Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
thông qua Tuyên ngôn Quốc tế Nhân Quyền (TNQTNQ). Cuốn sách này được chuẩn
bị và xuất bản nhân dịp kỉ niệm đặc biệt này.
Cụm từ “một chuẩn mực chung của thành tựu” (a common standard of
achievement) trong tựa đề của cuốn sách này được lấy từ Lời mở đầu của TNQTNQ.
Theo nhiều cách khác nhau, cuốn sách nhằm chứng tỏ rằng cụm từ đó đã phần nhiều
trở thành hiện thực. Các quyền ghi nhận trong TNQTNQ có thể không được đảm bảo
ở mọi quốc gia trên thế giới, song con người ở khắp nơi ngày càng đòi hỏi và giành
được sự tôn trọng đối với các quyền và tự do. Hoạt động của các chính phủ và tính
10 | TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN 1948
chính đáng của chúng được đánh giá dựa trên chuẩn mực của TNQTNQ. Không một
chính phủ nào có thể xem nhẹ những chuẩn mực này, tất cả đều phải thừa nhận tầm
quan trọng của những chuẩn mực đó trong quốc gia của mình và trong các quan hệ
quốc tế.
I. NGUỒN GỐC
Bằng một cách tiếp cận mới mẻ với các quyền và tự do so với những kinh nghiệm
quốc tế và quốc gia trước đó, TNQTNQ có nguồn gốc lịch sử sâu rộng. Trên thực tế,
mọi nền văn minh, tôn giáo và triết học đều chứa đựng những nguyên tắc vốn có liên
quan đến quyền con người, tuy nhiên, trên nhiều phương diện, chúng cũng dẫn đến
những thực tiễn mâu thuẫn. Văn hóa khắp địa cầu chia thành hai hướng: tôn trọng
hoặc phủ nhận phẩm giá con người và cách đối xử nhân đạo. Dưới danh nghĩa của
tôn giáo và ý thức hệ, quyền con người đã bị vi phạm ở mọi nơi trên thế giới rất
nghiêm trọng.
Những nhân vật xuất sắc từ khắp nơi trên thế giới đã đóng góp trong quá trình
soạn thảo TNQTNQ. Có một số quan điểm cho rằng TNQTNQ có cách tiếp cận chủ
yếu của phương Tây, tuy nhiên, cội nguồn của bản Tuyên ngôn này xuất phát từ
nhiều hướng khác nhau. Phải thừa nhận rằng, sự cân bằng về địa lý giữa các đại
biểu thời đó khác biệt khá lớn so với thành phần của cộng đồng thế giới hiện nay,
những dân tộc bản xứ cũng như nhóm thiểu số không có đại diện trong quá trình
soạn thảo và các bước thông qua Tuyên ngôn. Tuy nhiên, sự nhìn xa trông rộng của
những người soạn thảo trong việc đáp ứng những khát vọng và nhu cầu cơ bản và
phổ quát rõ ràng đã trụ vững qua thời gian.
Trong lịch sử châu Âu, gốc rễ của bản TNQTNQ bắt nguồn từ thời xa xưa, tuy
nhiên chỉ đến giai đoạn Phục Hưng thì nhân phẩm của cá nhân mới được nhấn mạnh.
Với sự tái xuất hiện của luật La Mã tại các trường đại học vào giai đoạn cuối của thời
kỳ Trung Cổ và với những tranh luận của giới trí thức về hệ thống cai trị hợp pháp
được khởi xướng bởi các tác giả như Machiavelli, một sự nhấn mạnh mới về nhân
phẩm đã cổ vũ sự tranh luận về quyền tự nhiên vào thế kỉ XVII. Nó còn được giải
thích trong khuôn khổ lý thuyết về khế ước xã hội. Những tác giả như Johannes
Althusius, John Locke, Jean-Jacques Rousseau, Thomas Paine và Thomas Jefferson
đã có những đóng góp quan trọng trong những tranh luận về mối quan hệ giữa cá
nhân và chính quyền. Kết quả của quá trình tranh luận này được thể hiện rõ trong
những văn kiện như Luật về các quyền của Anh quốc (1689), Tuyên ngôn Độc lập
Hoa Kỳ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789).
Giới thiệu chung | 11
Quá trình đấu tranh dai dẳng cho tự do và nhân phẩm thường phải đối diện với
những cuộc đàn áp dã man và những khổ đau triền miên, từ đó tạo nên cơ sở thực
tiễn cho các lý thuyết và tuyên ngôn kể trên. Qua nhiều thế kỉ, tiến trình dân chủ tại
châu Âu đã có nhiều bước thăng trầm. Vào thế kỉ XIX, chủ nghĩa lịch sử, chủ nghĩa
vị lợi, chủ nghĩa thực chứng… đã dần làm suy giảm tầm quan trọng của những lý
tưởng mang tính cách mạng về quyền con người của thế kỉ XVIII. Các lý thuyết về
các bước quá độ đã xuất hiện, theo đó chế độ cai trị độc tài và toàn trị có thể được
biện minh và thậm chí được ưu ái với lí do chúng sẽ đặt nền móng cho tự do toàn
diện hơn về sau này. Những tư tưởng này hiện nay vẫn còn tồn tại ở nhiều bối cảnh
khác nhau. Với cách tiếp cận đó, các quyền con người lại tiếp tục bị vi phạm một
cách nghiêm trọng và tàn bạo.
Sự tôn trọng đối với nhân phẩm của cá nhân đã được kiểm chứng khi xung đột với
ý chí và đặc quyền của tầng lớp thống trị, những giáo điều tôn giáo hay các tập tục
của cộng đồng. Trong các tình huống đó, quyền và nhân phẩm đã và sẽ còn bị đe dọa
ở nhiều nơi trên thế giới.
Xã hội định hình bởi hậu duệ của những người châu Âu khai hoang ở nước
ngoài đã tham gia vào quá trình này. Tuy nhiên, sự quan tâm tới phẩm giá cá nhân
của những người này không được mở rộng tới những người dân ở các quốc gia
thuộc địa. Theo chân những người khai hoang này, người ta cũng chứng kiến nạn
phân biệt chủng tộc, sự cách ly các chủng tộc ra khỏi nhịp điệu phát triển của xã
hội, sự thống trị và trong một số trường hợp cả sự diệt vong hoàn toàn của các
chủng tộc. Tuy nhiên ngày càng nhiều các cá nhân, nhóm người, và dân tộc trong
các quốc gia thuộc địa và các quốc gia châu Âu khác, cả ở chính quốc và thuộc địa,
đã lĩnh hội tư tưởng về nhân quyền và bắt đầu sử dụng chúng trong quá trình đấu
tranh cho tự do chống lại những sự vi phạm nhân quyền thô bạo cả trong quá trình
phi thực dân hóa và tự do hóa.
Sự thảm khốc của Chiến tranh Thế giới II, với những tội ác khủng khiếp không
thể tin nổi, đã là cơ sở cho việc soạn thảo và thông qua TNQTNQ. Lương tri nhân
loại trên toàn thế giới hoàn toàn chấn động trước sự dã man của chính quyền phát xít
Mussolini ở Ý, cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha dưới chế độ Franco, chủ nghĩa quân
phiệt Nhật Bản với chính sách chiếm đóng tàn bạo và trên hết là sự mở rộng của Đức
quốc xã với nạn diệt chủng dưới thời Hitler, cùng thời kỳ với sự lãnh đạo của Stalin ở
Liên Xô. Chính những động thái này đã dẫn đến một sự đồng thuận rằng một trật tự
pháp lý về nhân quyền cần được thiết lập.
Phát biểu quan trọng nhất về mong muốn hình thành trật tự pháp lý kể trên được
ghi nhận trong Thông điệp gửi tới Nghị viện Hoa Kỳ của Tổng thống Franklin D.
12 | TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN 1948
Roosevelt vào tháng 1 năm 1941. Trong đó, ông đề cập tới bốn quyền tự do như cái
đích mà trật tự thế giới cần hướng tới sau cơn ác mộng chiến tranh. Đó là các quyền
tự do bày tỏ ý kiến, quyền tự do tín ngưỡng, quyền không bị túng thiếu và quyền
không phải sợ hãi. Những quyền này là một trong số các cơ sở cho sự hình thành
Liên Hợp Quốc, cũng là nhân tố có tầm ảnh hưởng lớn trong các tiêu chuẩn toàn cầu
cho sự đối xử giữa con người với nhau trong tương lai.
Khi Hiến chương Liên Hợp Quốc được thông qua tại San Francisco vào mùa xuân
1945, nhiều quốc gia và các tổ chức phi chính phủ đã thúc ép việc phải có thêm một
bộ luật về các quyền. Nỗ lực này đã không thành công mặc dù Hiến chương cũng đã
đề cập một cách thực chất đến các quyền con người, ví dụ những mối quan tâm đến
không phân biệt đối xử và quyền dân tộc tự quyết. Thay vì có bộ luật về các quyền,
hội nghị đã đi đến thống nhất thành lập Ủy ban Nhân quyền với nhiệm vụ soạn thảo
và trình lên Đại hội đồng một Bộ luật quốc tế về quyền con người. Rất nhiều quốc
gia, các tổ chức quốc tế và các nhóm phi chính phủ, các trường đại học, cơ quan học
thuật và các cá nhân đã đưa ra những đề xuất, bao gồm cả những dự thảo toàn diện
trong quá trình hình thành TNQTNQ (sẽ được nói tới trong chương tiếp theo về lịch
sử hình thành TNQTNQ và trong nhiều điều khoản).
Dự thảo đầu tiên được chuẩn bị bởi Ban thư ký của Liên Hợp Quốc, còn gọi là
Tiểu ban nhân quyền, do John Humphrey, một giáo sư luật người Canada,1
đứng đầu.
Ông được hỗ trợ bởi Egon Schewelb và những thành viên khác của Ban thư kí. Dựa
trên nhiều dự thảo trước đó cùng với việc biên soạn và sưu tập hiến pháp các quốc
gia, họ đã trình một bản dự thảo toàn diện cho Ủy ban Nhân quyền.
Bà Eleanor Roosevelt, chủ trì Ủy ban Nhân quyền lúc đó, đã tiếp nhận tư tưởng
của Tổng thống Hoa Kỳ về “Chính sách mới” (New Deal) và Bốn quyền tự do. Khi
giải quyết sự bất đồng giữa các luồng quan điểm khác nhau từ các quốc gia và giữa
hai phe đối lập ngày trong đoàn đại biểu Hoa Kỳ (truyền thống tự do/xã hội dưới thời
Roosevelt và truyền thống bảo thủ/biệt lập), bà đã đóng vai trò lãnh đạo và hòa giải
trong Ủy ban cũng như trong chính đoàn đại biểu của mình.
René Cassin cũng là một trong những người có tầm ảnh hưởng lớn trong quá trình
này. Ông là một nhà soạn thảo có trình độ cao, người am hiểu truyền thống lâu đời về
nhân quyền trong lịch sử nước Pháp, sự gắn bó sâu sắc của ông với các vấn đề xã hội
đã khiến ông trở thành một người ủng hộ nhiệt huyết cho các quyền xã hội và kinh tế
lúc bấy giờ. Một số nhân vật có tầm ảnh hưởng khác là P. C. Chang, cựu giáo sư ở
Nam Kinh, Trung Quốc, Hernan Santa Cruz, luật sư từ Chile, Charles Malik, giáo sư
1 Nhân dịp lễ kỉ niệm lần thứ 40 sự ra đời của TNQTNQ, John Humphrey đ kể lại chuyện này
trong No Distant Millenium: The International Law of Human Rights, Paris: UNESCO, 1989.
Giới thiệu chung | 13
về triết học tới từ Lebanon, Omar Loufti của Ai Cập, Đại sứ Hausa Mehta của Ấn
Độ, Tướng Carlos P. Romulo của Philippines, Bogomolov của Liên Xô và Ribuikar
của Nam Tư.
II. NHỮNG ĐÁNH GIÁ HIỆN NAY
Tại thời điểm viết cuốn sách này, TNQTNQ đã tồn tại hơn 50 năm. Tầm quan
trọng của nó đối với các xã hội trong quốc gia và quan hệ quốc tế đã mở rộng tới các
lĩnh vực lịch sử, đạo đức, chính trị và pháp luật. Sức mạnh của sự dung hòa, bao dung
và hiểu biết mà bản Tuyên ngôn đã đưa ra có thể sẽ được xem như một trong những
bước tiến vĩ đại nhất trong quá trình văn minh hóa toàn cầu. Trên nhiều phương diện,
TNQTNQ là một phát kiến mà kết quả của nó đang dần soi sáng cộng đồng quốc tế.
Chưa bao giờ trong lịch sử mà việc đòi quyền con người lại có tầm ảnh hưởng
chính trị mạnh mẽ đến thế. Những thay đổi có tính căn bản ở châu Âu, châu Mỹ
Latinh và những khu vực khác trên thế giới đã diễn ra dưới khẩu hiệu nhân quyền và
dân chủ. Sự khác biệt ý thức hệ giữa phương Đông và phương Tây trong các ưu tiên
và cách hiểu hầu như đã mất đi. Sự do dự của Liên Xô, các nước XHCN khác và
Nam Phi ở giai đoạn TNQTNQ được thông qua năm 1948, thể hiện qua việc các
quốc gia này bỏ phiếu trắng cho Tuyên ngôn tại Đại hội đồng, phần lớn đã bị xóa bỏ.
Quá trình phi thực dân hóa đã tiến một bước dài. Dân chủ đã trở thành một
nguyên tắc cai trị cơ bản, cùng với nó là một danh sách dài các quyền con người. Ở
nhiều nơi trên thế giới, Liên Hợp Quốc đã đóng vai trò giám sát các cuộc bầu cử và
các cuộc trưng cầu dân ý. Những hiệp định ngừng bắn và các cuộc bầu cử đã được
tiến hành ở nhiều quốc gia dưới sự ủng hộ của Liên Hợp Quốc và cùng với nó là
những cam kết về Quyền con người, đóng góp to lớn cho quá trình hòa giải dân tộc
và tái thiết đất nước. Những thay đổi căn bản cũng diễn ra ở Nam Phi dưới sự lãnh
đạo của Nelson Mandela và Đại hội Dân tộc Phi (ANC). Những bước tiến này chứa
đựng nhiều yếu tố nhân quyền, ví dụ một số quyền ghi nhận trong Tuyên ngôn:
quyền bình đẳng, tôn trọng ý chí của người dân, quyền được bày tỏ ý kiến và tự do
lập hội.
Tuy nhiên, những nhận định trên không hàm ý đã có sự đồng thuận quốc tế về
quyền con người. Vẫn còn có rất nhiều bất đồng và mâu thuẫn trong các vấn đề thực
chất lẫn thủ tục, bao gồm cả các quyền và nghĩa vụ ghi nhận trong TNQTNQ. Hơn
thế, có nhiều dấu hiệu cho thấy sự căng thẳng Đông-Tây trước đây dần được thay thế
bởi những bất đồng Bắc-Nam. Các bất đồng này có tính căn bản và thực chất nhiều
hơn là những nỗ lực công khai nhằm gìn giữ quyền và đặc lợi, do đó, nó đặt ra câu
hỏi liệu nhân quyền có thể được xem như ưu tiên hàng đầu so với các yếu tố khác cần
14 | TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN 1948
thiết cho sự phát triển bền vững và công bằng xã hội. Những khác biệt đó cũng vẫn
dai dẳng trong việc lựa chọn các phương thức giám sát quốc tế, từ đối thoại hợp tác
đến đối đầu, chỉ trích và can thiệp.
Trong tất cả những tranh luận kể trên, TNQTNQ có một vị trí đặc biệt bởi cách
tiếp cận cũng như sự cân bằng về các quyền dân sự, văn hóa, kinh tế, chính trị, xã
hội, cũng như việc ghi nhận rõ ràng về các nghĩa vụ và một trật tự quốc tế để thực
hiện các quyền này. Thực tế là, do sự thông minh và tầm nhìn rộng của những người
soạn thảo, bản Tuyên ngôn vẫn tiếp tục là một văn kiện kinh điển, đang và sẽ là cầu
nối giữa các quan điểm khác nhau của nhân loại.
Là chuẩn mực về đạo đức, Tuyên ngôn đòi hỏi sự tôn trọng nhân phẩm của con
người, quyền tự do của mỗi người, đồng thời đòi hỏi cả những nỗ lực liên tục ở mọi
cấp độ để có thể hiện thực hóa việc hưởng các quyền con người trên phạm vi toàn
cầu. Bản TNQTNQ không dừng lại ở việc tuyên bố về các quyền mà còn kêu gọi sự
thay đổi kết cấu xã hội và quốc tế để những quyền này có thể được đảm bảo trên thực
tiễn (xem chương về Điều 28). Xem xét Tuyên ngôn như một “thước đo chung về
thành tựu”, mỗi cá nhân và mỗi bộ phận của xã hội cần đấu tranh bằng cách giáo dục
để nâng cao sự tôn trọng các quyền và tự do này, đồng thời đảm bảo sự thừa nhận và
tuân thủ thật sự trên phạm vi toàn cầu các quyền đó.
Trong lĩnh vực chính trị, TNQTNQ không chỉ tái khẳng định mà còn mở rộng các
nguyên tắc về quyền bình đẳng và không phân biệt đối xử ghi nhận trong Hiến
chương Liên Hợp Quốc. Sự mở rộng này đã được xác nhận bởi hàng loạt những văn
kiện nhân quyền sau này về việc xóa bỏ phân biệt đối xử trong giáo dục và tuyển
dụng, phân biệt đối xử với phụ nữ và các phân biệt sắc tộc khác.
Hơn nữa, TNQTNQ còn tạo nên một hệ thống quyền cơ bản và toàn diện, đặt các
quyền xã hội, kinh tế và văn hóa ngang hàng với các quyền dân sự và chính trị. Cách
tiếp cận này đã từng bị phản đối và thậm chí là bác bỏ trong suốt một quá trình dài
khi có sự khác biệt lớn về hệ tư tưởng, nay đã được công nhận trong những tuyên bố
chính thức về chính sách đưa ra bởi Đại hội đồng và trong Tuyên bố Viên (Vienna
Declaration) được thông qua bởi Hội nghị Thế giới về Quyền con người năm 1993.
Tuyên bố này khẳng định rằng mọi quyền con người đều không thể tách rời, phụ
thuộc lẫn nhau và có mối quan hệ qua lại với nhau. Những văn kiện gần đây như
Công ước quyền trẻ em hay Tuyên bố về quyền phát triển là bằng chứng cho tính
đúng đắn của nhận định này.
TNQTNQ, với Lời mở đầu và 30 điều khoản, đã và sẽ là nguồn cảm hứng, là chỉ
dẫn cho việc định ra những tiêu chuẩn cho các hoạt động giám sát của Liên Hợp
Giới thiệu chung | 15
Quốc về nhân quyền. Điều này cũng đúng trong công việc của các tổ chức liên chính
phủ và phi chính phủ ở cả tầm quốc gia và quốc tế.
Có nhiều ví dụ về vai trò đặc biệt của bản Tuyên ngôn này. Thực tế là nội dung
của TNQTNQ đã được sử dụng nhiều lần trong quá trình soạn thảo các văn kiện quốc
tế khác, như hai Công ước quốc tế và các điều ước cũng như công ước quốc tế về
nhân quyền khác. Bên cạnh đó, cũng là nền tảng căn bản cho quá trình định ra các
tiêu chuẩn mới như là việc soạn dự thảo cho các công ước về người bảo vệ nhân
quyền hay quyền của những người bản xứ.
Về tầm quan trọng pháp lý của TNQTNQ, Tuyên ngôn này đã được thông qua bởi
một nghị quyết của Đại hội đồng. Mặc dù nó không phải là một công ước đòi hỏi phê
chuẩn hay gia nhập, TNQTNQ có giá trị pháp lý vượt xa các nghị quyết thông thường,
thậm chí vượt xa cả những tuyên ngôn khác do Đại hội đồng đưa ra. Vai trò của Đại
hội đồng trong việc giải thích các điều khoản của Hiến chương Liên Hợp Quốc, mối
quan hệ của nó với những văn kiện và nghị quyết khác, những tuyên bố của Tổng thư
ký Liên Hợp Quốc và của các chính phủ trên phạm vi quốc gia và quốc tế, những hoạt
động giám sát trên cơ sở Tuyên ngôn và tầm ảnh hưởng của nó đến những hành vị định
ra các tiêu chuẩn sau này đều minh chứng cho lập luận kể trên, đặc biệt là khi
TNQTNQ được sử dụng như là luật cho mục đích tạo lập một khuôn khổ pháp lý cần
thiết.
Nhiều quốc gia đã dựa trên cơ sở TNQTNQ như một hình mẫu cho những hành vi
lập hiến và lập pháp của mình. Khi đưa ra phán quyết của mình, cả Tòa Công lý
Quốc tế và các tòa quốc gia khác đều dựa vào TNQTNQ như một công cụ giải thích
hay là tập quán quốc tế. Đối với việc thực thi nhân quyền ở các quốc gia, TNQTNQ
luôn ở vị trí hàng đầu trong các quộc tranh luận chính trị, ngoại giao và tranh luận
công khai. Tuyên ngôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình đấu tranh cho việc thi
hành các quyền cơ bản và chống việc vi phạm các quyền này. Các tổ chức phi chính
phủ như Ân xá Quốc tế (Amnesty International) và Article 19 đều dựa vào nội dung
của tuyên ngôn này trong nỗ lực thực thi các tiêu chuẩn quốc tế.
Vai trò quan trọng nhất của TNQTNQ có lẽ là việc nó trở thành cơ sở cho nhiều
cơ chế giám sát của Liên Hợp Quốc, minh chứng cho việc một “thước đo chung” đã
được chấp nhận trên thực tế. Quá trình trao đổi thông tin và các thủ tục điều tra trong
lĩnh vực nhân quyền, như thủ tục 1503 được đưa ra trong một nghị quyết của Ủy ban
Kinh tế Xã hội, cũng dựa trên tuyên ngôn này. Với vai trò điều tra của mình, Báo cáo
viên đặc biệt của Ủy ban Nhân quyền cũng đã sử dụng TNQTNQ khi mà điều ước
không đủ để lên án thủ phạm. Hơn thế, TNQTNQ còn có lợi thế căn bản đó là điều