Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tuyến điểm du lịch Việt Nam
PREMIUM
Số trang
499
Kích thước
20.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1736

Tuyến điểm du lịch Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Thư viện - ĐH Quy Nhơn

VVG01017.0002

BÙI THỈ HẢI YẾN

(Tái bản lần thứ mười)

TRƯỞNG ĐẠI HỌC QUV NHƠN

THƯ VIỆN_______

\ỊM Crm y/iy I

NHÀ XUẤT BẢN g ia o d ụ c v iệ t nam

LỜI NÓI Đổu

V

ần hoá là một thực th ể sống động, có sự vện động cả trong không gian và thời

gian. Nhìn theo chiều thời gian, văn hoá Việt Nam là một diễn trình lịch sử cố

những quy luạt phát triển của nó. Nhìn trong không gian, văn hoá Việt Nam có

sự vạn động qua các vùng - xứ - miền khác nhau.

Trải dài từ Bắc vào Nam VỚI dáng hình lưỡi gươm mở nước, việt Nam bao gồm

nhiều vùng sinh thái khác nhau. 5 4 tộc người cùng chung sống hoà hợp, đoàn kết

và thân ái, diều dó khẳng dịnh Việt Nam là quốc gla đa tộc người. Điều kiện tự

nhiễn, xã hội, lịch sử của các vùng có những nét tương dồng, cố những nét dị biệt.

Do vạy, chu trình vận dộng của văn hoá nước ta dược cảm nhận dưới hai chiều cảm

quan và nhãn quan luôn chịu sự tá c đọng của những diều kiện kể trên.

Tác giả cuốn sách là một nhà khoa học nữ, tạn tâm, tạn lực, say mê nghề

nghiệp. Thạc s ĩ Bùi Thị Hải Yên dã dành nhiều công sức hoàn thành dề tài nghiên

cứu bước đầu phân dịnh tuyến diêm du lịch Việt Nam. Ước vọng của tá c giả là phan

nào cung câp dược khối kiến thức cơ bản và tương đối toàn diện về những tuyến

điếm du lịch tiêu biêu, nhằm đáp ứng nhu cẩu đào tạo cử nhân Du lịch học và những

người làm công tá c hướng dẫn du lịch. Cuôn sách là một công trình khoa học dầy

dặn vế sô lượng, phong phú vê nội dung cũng như da dạng trong các mô hình tuyến

diểm dã dược tá c giả chọn lọc.

D ạ t dược sự rành rẽ và mạch lạc trong cấu trúc, văn phong giản dị nhưng tạo

dược sức thuyết phục, "Tuyến dlềm du lịch Việt Nam" dem đến cho người dọc những

xúc cảm tố t lành cũng như những tri thức có th ể theo họ suốt hành trình khám

phá vẻ đẹp d ât nước và con người Việt Nam. Trong tinh thẩn giáo dục tình yều ĩ ể

quốc, cuốn sách này của tấ c giả Bùi Thị Hải Yến th ạ t sự hữu ích.

Dời người như mây bay, gió thoảng, dài chẳng thoát nểi một lần chớp mắt, sâu

chẳng vượt qua một cái nhíụ mày. sông, Di và Khám Phá nghĩa là dượr, trải nghiệm

nhiều hơn, thú vị hơn, sâu sắc hơn, vượt lền trên khoảng thời gian hữu hạn mà tạo

hoá chi phối, trước khi chúng ta "hết hạn hành trình"!

3

có lẽ chỉ riêng'vậy thối cũng đủ để mỗi người trong chúng ta không phải

nuôi tiếc!

Xin trân trọng giói thiệu với quý bạn đọc "Tuyến điểm du lịch Việt Nam” và xin

chia sẻ niềm vui cùng tá c giả vói công trình khoa học này.

Hà Nội, ngày 25 tháng 3 năm 2 0 05

Trần Thuý Anh

(UỶ VIÊN HỘI ĐỔNG KHOA HỌC VÀ ĐẢO TẠO KHOA DU LỊCH HỌC

TRUỠNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VẦ NHÂN VĂN

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘl)

ChươNq 1

KHÁI QUÁT VÊ ĐIỂU KIỆN Tự NHIÊN.

TÀI NGUYỀN DU ỤCH VÀ KẾT CẤU HẠ TẦNG CỦA VIỆT NAM

I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐlỂư KIỆN Tự NHIÊN VÀ TÀI NGUYÊN DU LỊCH

VIỆT NAM

1.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐIỂU KIỆN Tự NHIÊN VÀ TÀI NGUYÊN DU LỊCH

Tự NHIÊN

1.1.1. Vị trí địa lý

Nước Việt Nam nằm ở rìa phía tây của bán đảo Đông Dương, gần trung ^

tâm khu vực Đông Nam Á, bao gồm phần đất liền, phần biển và vùng trồi:

♦ Phần đất liền nằm trong khung của hệ toạ độ địa lý từ điểm cực Bắc ở

Vĩ độ 23°23 B tại xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang đến điểm cực

Nam ở Vĩ độ 8°34B tại xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau; điểm cực

Tây ỏ Kinh độ 102°09Đ tại xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên và

điểm cực Đông nằm ỏ Kinh độ 109°24Đ tại xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh,

tỉnh Khánh Hoà.

Vùng đất liền Việt Nam gồm toàn bộ phần đất liền và các hải đảo có tổng

diện tích là 331.212km2 (Niên giám thống kê 2006).

Nước ta có hơn 4.000km đường biên giới trên đất liền, trong đó đường biên

giối Việt Nam — Trung Quốc dài hơn 1.400km; đường biên giới Việt Nam - Lào

dài gần 2.100km; đường biên giới Việt Nam - Campuchia dài hơn l.lOOkm.

Phần lớn đường biên giới nưốc ta nằm ỏ khu vực miền núi thường được xác

định theo các địa hình đặc trưng: các đỉnh núi, đường sống núi, các đường chia

nưóc, khe, sông, suối. Việc giao thương giữa nước ta vối các nước láng giềng

được tiến hành qua các cửa khẩu.

Chiều dài từ Bắc đến Nam trên phần đất liền khoảng hơn 1.650km; chiều

dài theo chiều Đông - Tây nơi rộng nhất trên 500km, nơi hẹp nhất khoảng

50km (ỏ Quảng Bình).

Đường bò biển nước ta dài 3.620km chạy từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến

Hà Tiên (Kiên Giang). Với đặc điểm này tạo điều kiện cho 28 tỉnh thành có

thể khai thác tiềm năng của biển Đông để phát triển kinh tế.

Nước ta có hơn 4.000 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là các đảo ven bò và có

hai quần đảo ồ ngoài khơi xa trên biển Đông là quần đảo Trường Sa (thuộc

tỉnh Khánh Hoà) và quần đảo Hoàng Sa (thuộc thành phô"Đà Nằng).

5

♦ Vùng biểrí

Trên vùng biển, hệ toạ độ địa lý của nước ta kéo dài tới khoảng Vĩ độ

—6°30 B và từ Kinh độ 101°Đ đến 117°20Đ tại biển Đông.

Vùng biển Việt Nam tiếp giáp với vùng biển của các nưóc Trung Quốc,

Campuchia, Philippines, Malaysia, Brunây, Indonesia, Singapore, Thái Lan.

Vùng biển nưâc ta bao gồm: vùng nội thuỷ, vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp

lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa.

- Vùng nội thuỷ là vùng tiếp giáp vối đất liền, ỏ phía trong đường cơ sở.

Ngày 12-11-1982, Chính phủ nước ta ra tuyên bố- quy định đường cơ sỏ ven

biển để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Vùng nội thuy cũng được xem như

bộ phận lãnh thổ trên đất liền.

- Vùng lãnh hải là vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia trên biển. Lãnh

hải Việt Nam có chiều rộng 12 hải lý (1 hải lý = 1.852m), chính là đường ranh

giới quốc gia trên biển.

- Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển được quy định nhằm đảm bảo cho

việc thực hiện chủ quyền của nưốc ven biển. Vùng tiếp giáp lãnh hải của nưốc

ta rộng 12 hải lý. Trong vùng này, Nhà nước ta có quyền thực hiện các biện

pháp để bảo vệ an ninh quổc phòng, kiểm soát thuế quan các quy định về y

tế, môi trường, nhập cư.

- Vùng đặc quyền về kinh tế lằ vùng tiếp liền với lãnh hải và hợp vối

lãnh hải thành một vùng rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở; Nhà nưốc ta có

chủ quyền về kinh tế nhưng các nưốc khác được đạt ống dẫn dầu, dây cáp

ngầm và tàu thuyền, máy bay nước ngoài được tự do hoạt động hàng hải,

hàng không theo công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.

- Thềm lục địa là phần ngầm dưối biển, lòng đất dưới đáy biển thuộc

phần lục địa kéo dài mỏ rộng ngoài lãnh hải cho đến bò ngoài của rìa lục địa

có độ sâu khoảng 200m hoặc hơn nữa. Nhà nước ta có chủ quyền hoàn toàn về

mặt thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý các tài nguyên thiên nhiên ở thềm

lục địa Việt Nam.

Như vậy, theo quan điểm trên về chủ quyền quốc gia thì vùng biển Việt

Nam là diện tích khoảng trên 1 triệu km2 ỏ biển Đông.

♦ Vung trời

Vùng trời Việt Nam là khoảng không gian bao trùm lên trên lãnh thổ

nước ta; trên đất liền được xác định bằng các đường biên giới, trên biển là

ranh giới ngoài lãnh hải và không gian các đảo1.

6

Nguồn: Sách giáo khoa địa lý lớp 12, NXB Giáo dục Việt Nam 2009, tr.13-15; Niên giám

thông kê, năm 2006: www.gov.vn

Ngoài ra, Việt Nam nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đối gió mùa, được

thiên nhiên ưu đãi, không bị khô nóng như khí hậu của các nưốc cùng vĩ độ.

Vị trí địa lý nưốc ta gần như ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, khoảng cách

từ Hà Nội đến thủ đô Ran-gun của Myanmar là 1.220km, đến Băng Cốc, Viên

Chăn, Pnôm Pênh, Singgapore còn gần hơn khoảng cách này nên thuận lợi

cho việc giao lưu, phát triển du lịch với các nước trong khu vực.

Khu vực Đông Nam Á là khu vực có nền kinh tế phát triển năng động, có

sự hợp tác vê nhiều mặt giữa các quốc gia trong khu vực, thuận lợi cho nưốc

ta trong phát triển kinh kế, văn hoá và du lịch.

Bên cạnh những thuận lợi về mặt vị trí địa lý nưóc ta cũng còn có một số

mặt hạn chế:

- Thường xuyên chịu ảnh hưỏng của bão, một sô' vùng thường xuyên bị

hạn hán, mưa lũ đe doạ.

- Bò biển dài, đưòng biên giới tiếp giáp với nhiều quốc gia nên chi phí cho

bảo vệ quốc phòng tôn kém.

- Có hình thể kéo dài dẫn đến chi phí tôn kém cho xảy dựng đường giao

thông, khó khăn cho việc tổ chức, quản lý đất nước và hoạt động du lịch.

Khi xem xét vị trí của các điểm du lịch cần phải nghiên cứu, đánh giá về

vị trí tiếp giáp, toạ độ địa lý, vị trí so với các trung tâm kinh tê văn hoá, du

lịch và lợi thế. Từ đó luận giải các điều kiện phát triển du lịch của các điểm

du lịch.

1.1.2. Đ iểu kiện tự n h iên và tài nguyên du lịch tự nh iên

a) Địa hình, địa chất

♦ Địa chất

Lịch sử hình thành và phát triển địa chất lãnh thổ nưốc ta, gắn liền với

lịch sử hình thành và phát triển của trái đất cách ngày nay khoảng 4,6 tỉ

năm, gồm ba giai đoạn: Tiền Cambri, cổ kiến tạo và Tân kiến tạo.

- Giai đoạn Tiền Cambri: trải qua hai đại địa chất. Đại Thái cổ

(Archeozoic), kết thúc cách ngày nay 2,5 tỉ năm và đại Nguyên cổ kết thúc

cách ngày nay 542 triệu năm. Nhũng dâu vết địa chất của vỏ trái đất trong

giai đoạn này phần lổn chìm ngập dưới các lốp đất đá, còn ít được nghiên cứu.

Đây là giai đoạn hình thành nền móng ban đầu của lãnh thồ Việt Nam.

Các vận động trong giai đoạn này ở nước ta diễn ra tập trung ở khu vực

Hoàng Liên Sơn, Tây Nguyên và Trung Trung Bộ. Các đá biến chất cổ phát

hiện ở Kon Turn và Hoàng Liên Sơn có tuổi cách ngày nay 2,5 tỉ năm. Các

sinh vật sông trong giai đoạn này còn ở dạng nguyên sinh: tảo và động vật

thân mềm.

- Giai đoạn CỔ kiến tạo: Bắt đầu từ kỷ Cambri, cách ngày nay 542 triệu

năm, trải qua hai đại địa chất cổ sinh và Trung sinh, chấm dứt ở kỷ Kreta,

7

cách đây 65 triệu năm. Đây là giai đoạn có tính chất quyết định lịch sử phát

triển tự nhiên của nước ta..Trong giai đoạn này, lãnh thổ nưốc ta có nhiều

khu vực chìm ngập dưới nước biển trong các pha trầm tích và được nâng lên

trong các pha uốn nếp của các chu kỳ tạo núi: Calêđôni và Hecxini, thuộc đại

Cổ sinh; Inđôxini và Kimêri, thuộc đại Trung sinh.

Đất đá của giai đoạn này có cả các loại trầm tích biển như đá vôi tuổi

Đêvôn và Cacbon — Pecmi có nhiều ỏ miền Bắc. Tại một sô" vùng trũng sụt lún

trên đất liền được bồi lấp bỏi các trầm tích lục địa vào đại Trung sinh đã hình

thành các mỏ than ở Quảng Ninh, Quảng Nam, các đá cát kết màu đỏ sẫm ở

vùng Đông Bắc.

Các hoạt động uốn nếp và nâng lên: Calêđôni và Hecxini, thuộc đại cổ sinh

diễn ra ở khối thượng nguồn sông Chảy, khối Việt Bắc, địa khốĩ Kon Tum;

Inđôxini và Kimêri, thuộc đại Trung sinh diễn ra ở Tây Bắc và Bắc Trung Bộ; các

dãy núi hướng vòng cung ở Đông Bắc và các khối núi cao ỏ Nam Trung Bộ.

Cùng vối các hoạt động uốn nếp, sụt lún là các đứt gãy, động đất vổi các

loại đá măcma xâm nhập và măcma phun trào như: granit, riolit, andêzit và

các khoáng sản: đồng, sắt, thiếc, vàng, bạc, đá quý...

Về cơ bản đại bộ phận lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã được định hình từ

khi kết thúc giai đoạn cổ kiến tạo.

- Giai đoạn Tân kiến tạo: giai đoạn này bắt đầu từ cách đây 65 triệu năm

và đang tiếp diễn đến ngày nay. Sau khi kết'thúc các vận động địa chất cổ

kiến tạo, lãnh thổ nước ta trải qua một thòi kỳ tương đốỉ ổn định và tiếp tục

được hoàn thiện dưới chế độ lục địa, chủ yếu chịu sự tác động của các quá

trình ngoại lực. Tiếp đến, lãnh thổ nước ta chịu tác động mạnh của vận động

tạo núi Anpơ - Himalaya. Từ kỷ Nêôgen, cách đầy khoảng 23 triệu năm, cho

đến ngày nay và các uốh nếp đứt gãy, phun trào măcma nâng cao và hạ thấp

của địa hình bồi lấp các trũng lục địa. Trong giai đoạn này, đặc biệt vào kỷ Đệ

tứ), khí hậu của trái đất lạnh với những thòi kỳ băng hà, tạo ra tình trạng

biển tiến, biển thoái trên lãnh thổ nước ta, mà dấu vết là để lại các thềm biển,

cồn cát, các ngấn nước trên vách đá ở các vùng biển và các đảo ven bò.

Ảnh hưởng của vận động Tân kiến tạo ở nước ta làm cho một số vùng núi

(Hoàng Liên Sơn) được nâng lên, địa hình trẻ lại, các quá trình xâm thực, bồi

tụ được đẩy mạnh, tạo nên các đồng bằng châu thổ rộng lớn (Bắc Bộ, Nam Bộ)

và các khoáng sản có nguồn gôc ngoại sinh như: dầu mỏ, khí tự nhiên, than

nâu, bôxit,...

Đây là giai đoạn tiếp tục hoàn thiện các điều kiên tư nhiên làm cho nước

ta có diện mạo và đặc điểm tự nhiên như ngày nay.

♦ Địa hình trên lục địa

Nước ta có địa hình đồi núi chiếm khoảng 3/4 diện tích đất liền, chủ yêu là

đồi núi thấp, núi có độ cao trên 2.000m chỉ chiếm có 1% diện tích.

8

Các dãy núi có hưống chính là hưống tây bắc - đông nam và hướng vòng

cung, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam. ở vùng Tây Bắc tập trung một số

đỉnh núi cao như Phan Xi Păng cao 3.143m, Tây Côn Lĩnh cao 2.431m, Kiều

Liêu Ti cao 2.403m, Pu Ta Ka cao 2.274m...

Cấu tạo địa chất của địa hình núi nước ta gồm đá vôi, đá bazan, đá hoa

cương, đá gơ nai, đá sa phiến thạch... Trong đó, địa hình đá vôi chiếm khoảng

õO.OOOkm2 phân bô' ở nhiều nơi. Với ảnh hưỏng của các quá trình địa chất, địa

mạo, địa hình đá vôi đã tạo ra nhiều phong cảnh đẹp. Theo điều tra chưa đầy

đủ cho thấy ở nước ta có khoảng 400 hang động đá vôi, không những có phong

cảnh đẹp, hấp dẫn du khách mà còn có giá trị về mặt địa chất, lưu giữ các giá

trị văn hoá, tài nguyên du lịch có giá trị. Đặc biệt Vịnh Hạ Long với một quần

thể các đảo đá vôi đã được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới;

Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng vối hệ thống núi và hang động đá vôi;

Cao nguyên đá Đồng Văn đã được UNESCO công nhận là Công viên địa chất

toàn cầu.

Tên của các đỉnh núi, dãy núi thường mang đặc điểm địa hình và hình

dạng của chúng hoặc tên của các nhân vật trong huyền thoại như núi Hoàng

Liên Sơn do có nhiều cây thuốc Hoàng Liên, núi Ngự Bình (Bằng Sơn) do có

đỉnh tương đối bằng phang, núi Hoành do núi đâm ngang ra biển, núi Tản

Viên mang tên của thánh Tản Viên...

Sư kết hợp giữa khí hậu, sinh vật, thuỷ văn và địa hình đã tạo cho các

vùng núi có phong cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ, thuận lợi cho việc phát triển du

lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, tham quan.

Địa hình đồng bằng khá bằng phẳng, bao gồm: đồng bằng sông Hồng,

đồng bằng sông cửu Long và các đồng bằng ở Duyên hải miền Trung. Các

đồng bằng là yếu tô' tự nhiên quan trọng cho việc hình thành, nuôi dưỡng phát

triển các nền văn hoá, văn minh ở nước ta, thuận lợi cho việc phát triển các

loại hình du lịch sông nưốc, du lịch sinh thái, du lịch văn hoá...

Đồng bằng sông Hồng có diện tích 1,5 triệu ha, có lịch sử khai thác lãnh

thổ lâu đòi và là yếu tô' hình thành nuôi dưỡng nền văn minh sông Hồng, nền

văn hoá Đông Sơn, văn hoá Đại Việt.

Đồng bằng sông cửu Long với diện tích 4 triệu ha, có lịch sử khai thác

lãnh thổ trẻ, không đăp đê, vân đang phát triển, hằng năm tiến ra biển

khoảng lOOm, có nhiều vùng ngập nước. Ở đây có hệ thông kênh, rạch dày đặc

thuận lợi cho việc phát triên du lịch sinh thái (miệt vườn, sông nước).

Đồng bằng Duyên hải miền Trung có diện tích 1,5 triệu km2 phân bô' ở

ven biển từ Thanh Hoá đên hết Bình Thuận, là yếu tô tạo nên nền văn minh

Đại Việt, văn hoá Sa Huỳnh, Chăm Pa và các đồng bằng giữa núi.

♦ Biển và bờ biển

Việt Nam có đường biển lên tối 3.260km, tính trung bình cứ lOOkm2 diện

tích thì có lkm bờ biển, trong khi trên thế giới trung bình 600km2 thì mới có

9

lkm bò biển. Địa hình bò biển nước ta có nhiều cửa sông, vũng vịnh, thuận lợi

cho việc xây dựng các hải cảng. Đây là điều kiện quan trọng để hình thành và

phát triển nhiều thương cảng - thành phô' biển như Hải Phòng, Vũng Tàu, Đà

Nằng... Thềm lục địa nổng và rộng, biển ấm. Nhiệt độ trung bình của nước

biển từ 25 - 28°c, vùng biển phía bắc vào mùa đông nhiệt độ nước biển hạ

thấp hơn do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Độ mặn trung bình của nước

Biển Đông là 34%0, về mùa mưa độ mặn là 32%0 và mùa khô là 35%0. Đây là

những điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch nghỉ dưõng, tắm biển,

lặn biển...

Trong vùng biển của nước ta có hai dòng hải lưu nóng và lạnh, một hải

lưu hướng đông bắc — tây nam phát triển về mùa đông, một hải lưu hưống tây

nam - đông bắc phát triển vào mùa hạ. Ngoài ra, trong vịnh Bắc Bộ còn hai

hải lưu nhỏ, thường thay đổi theo hướng gió mùa. Những điều kiện này đã tạo

cho biển nước ta giàu hải sản, là yếu tô' quan trọng cho việc hình thành và

phát triển văn hoá từ xa xưa như Hạ Long, Sa Huỳnh.

Biển nưốc ta còn có 2.028 loài cá biển, trong đó có 102 loài có giá trị kinh

tê' cao; 650 loài rong biển, 300 loài thân mềm, 300 loài cua, 90 loài tôm, 350

loài san hô... Biển nước ta có trữ lượng cá khoảng 3,6 triệu tấn, tầng trên mặt

có trữ lượng 1,9 triệu tấn, tầng đáy 1,7 triệu tấn. Ngoài ra còn có 40.000 ha

san hô ven bò, 250.000 ha rừng ngập mặn ven biển có sự đa dạng sinh học

cao. Trong đó có ba khu sinh quyển thê' giới là: Vườn quốc gia (VQG) Xuân

Thuỷ (Nam Định), rừng Sác cần Giờ (Tp. Hồ Chí Minh) và VQG Cát Bà (Hải

Phòng). Đồng thời nước ta còn có 290.000 ha triều lầy, 100.000ha đầm phá.

Biển nưốc ta còn có gần 4.000 hòn đảo trong đó có một sô' quần đảo xa bờ

như Trường Sa, Hoàng Sa... và nhiều đảo lớn có giá trị về du lịch như Phú

Quốc, Côn Đảo, Cát Bà...

b) Tài nguyên khí hậu

Nước ta có khí hậu nhiệt đối gió mùa, với nhiệt độ trung bình năm từ

23 - 27°c, lượng mưa trung bình năm từ 500 - 2.000mm, độ ẩm trung bình

trên 80%, bức nhiệt xạ là 130 kcl/cm2. Khí hậu có sự phân hoá theo mùa, rõ

nhất là sự phân hoá lượng mưa, có tối 90% lượng mưa tập trung từ tháng IV

đến tháng X. Miền Bắc và miền Nam thường mưa nhiêu vào tháng VI - IX.

Miền Trung mưa nhiều vào tháng IX - XII. Do đó thường gây ra lũ lụt, lở đất

gây khó khăn cho hoạt động du lịch.

Khí hậu nước ta có sự phân hoá theo vĩ độ:

Từ đèo Hải Vân trỏ ra Bắc là khí hậu á nhiệt có một mùa đông lạnh mưa

ít và một mùa hạ nóng mưa nhiều. Giữa mùa đông và mùa hạ là hai mùa

chuyển tiếp thu, xuân.

Từ đèo Hải Vân đến mũi Cà Mau nóng quanh năm, nhiệt độ trung bình từ

27 — 28°c, có một mùa mưa và một mùa khô.

10

Khí hậu còn có sự phân hoá theo độ cao. Cứ lên cao 1.000 mét nhiệt độ hạ

từ 5 - 6°c, cùng với những tài nguyên khác, nhiệt độ hạ thấp đã tạo nên cho

đất nước ta nhiều điểm phong cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ như Sa Pa, Đà Lạt,

Tam Đảo, Ba Vì, Bạch Mã, Bà Nà... hấp dẫn nhiều du khách.

Nhìn chung khí hậu nưốc ta phù hợp với sức khoẻ của con người, thuận lợi

cho tổ chức, triển khai nhiều hoạt động du lịch, tạo nhiều tài nguyên du lịch

phong phú, hấp dẫn.

Tuy nhiên, khí hậu nước ta cũng có nhiều thiên tai và những hiện tượng

thòi tiết đặc biệt, trung bình mỗi năm có khoảng 10 cơn bão từ biển đổ bộ vào

đất liền đi kèm vối gió to và mưa lớn. Ngoài ra còn có gió phơn tây nam ỗ miền

Trung, gió bụi ỏ Tây Nguyên, gió mùa Đông Bắc... Những hiện tượng này

thường gây khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động du lịch, phá huỷ các tài

nguyên du lịch đặc biệt là tài nguyên du lịch nhân văn hữu thể.

Khi nghiên cứu về khí hậu để tổ chức các hoạt động du lịch nói chung và

hoạt động hướng dẫn nói riêng cần nghiên cứu: các đặc điểm chung củá khí /

hậu, các chỉ sô khí hậu, các hiện tượng thời tiết đặc biệt, thiên tai. Từ đó, tính

toán được những thời gian thuận lợi, không thuận lợi của khí hậu để triển

khai các hoạt động du lịch có hiệu quả, cũng như luận giải các vấn đề về tự

nhiên, văn hoá xã hội.

c) Tài nguyên nước

Nưóc ta có tài nguyên nước phong phú gồm nước ngầm và nước trên mặt:

♦ Nước trên mặt: với hệ thống sông, suối, ao, hồ dày đặc, lượng nước dồi dào.

+ Nước ta có mạng lưới sông ngòi dày đặc vói 2.345 con sông có chiều dài

trên lOkm, mật độ trung bình từ 1,5 - 2km sông/lkm2 diện tích, cứ đi dọc bờ

biển khoảng 20km lại gặp một cửa sông. Tổng lượng dòng chảy của tất cả các

con sông chảy qua lãnh thô Việt Nam là 853km3, trong đó tổng lượng dòng

chảy phát sinh trên nước ta chỉ có 317km J. Tỉ trọng nước bên ngoài chảy vào

nước ta tương đổì lớn, tới 60% so vối tổng lượng nước sông toàn quốíc, riêng đốì

vói sông Cửu Long là 90%.

Xét về mặt hoá tính, nưốc sông ngòi Việt Nam có chất lượng tốt, độ

khoáng tháp (khoảng 170mg/l). Đối với sông lớn, độ pH trung bình từ 7,2 - 8

và hàm lượng chất hữu cơ thấp.

Sông ngòi nước ta có chê độ nước theo mùa. về mùa mưa, lượng dòng chảy

chiếm tối 70 - 80% tổng lượng nước cả năm. Vì vậy, thường gây lũ lụt và tác

động tiêu cực đên hoạt động du lịch, nhất là loại hình du lịch sông nước.

Theo hướng của địa hình, sông ngòi thường chảy theo hưởng tây bắc —

đông nam đổ ra biển, trừ sông Kỳ Cùng bắt nguồn từ vùng núi Đông Bắc đô

ra sông Bằng Giang rồi chảy sang Trung Quốc; sông Sê-san, Sêrêpốk đổ vào

hệ thông sông Mê Kông trên lãnh thổ Cam-pu-chia.

11

Sông ngòi nưóc ta có nhiều thác ghềnh có thể kể đến thác Đầu Đẳng trên

sông Năng, thác Bản Dốc'trên sông Quy Sơn, thác Bạc (Tam Đảo - Vĩnh

Phúc), thác Prenn (Đà Lạt)... là những điểm du lịch hấp dẫn.

Sông ngòi nước ta có giá trị thuỷ điện lớn với trữ lượng khoảng 30 triệu kW.

Tiềm năng này tập trung chủ yếu ở hệ thống sông Hồng (37%) và hệ thông

sông Đồng Nai (19%). Trong điều kiện hiện nay, nước ta có khả năng khai

thác 82 tỷ kWh.

♦ Các hệ thống sông lớn ở nước ta

- Hệ thống sông miền Bắc gồm: hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình là

hợp lưu của các con sông: sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Chảy, sông Cầu,

sông Lục Nam, sông Thương, sông Đuống, sông Luộc, sông Kinh Thầy; hệ

thống sông Bằng gồm: sông Quy Sơn, sông Kỳ Cùng.

+ Hệ thống sông Hồng gồm: sông Hồng, sông Lô và sông Đà. Sông Hồng

bắt nguồn từ cao nguyên Vân Quý, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc; ỏ độ cao trên

2.000m so với mực nưốc biển. Sông Hồng có chiều dài 1.126km, đoạn chảy qua

Việt Nam dài 510km; 57% diện tích lưu vực của sông Hồng chảy trên lãnh thổ

Trung Quốc; độ dốc bình quân 30%. Sông Hồng có nhiều tên gọi khác như:

sông Cái, sông Thao (đoạn chảy qua Lâm Thao, Phú Thọ), sông Nhị Hà (đoạn

chảy qua Hà Nội).

Sông Đà: bắt nguồn từ Trung Quốc, có' độ dài 1.013km, đoạn chảy qua

Việt Nam (Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Hà Nội) dài 527km. Từ Lai Châu trở

xuống, sông Đà nhận thêm nước của các sông Nậm Na, Nậm Hu, Nậm Mức.

Do lưu vực của sông Đà chảy qua các vùng núi cao của Trung Quốc và Tây

Bắc của Việt Nam nên có độ dốc trung bình lớn (26,8%), lưu lượng nưốc lốn

nhất 18.000m3/giây. Sông Đà chiếm tới 30% giá trị thuỷ điện của hệ thông

sông Hồng.

Sông Lô: bắt nguồn từ vùng núi Tây Nam Trung Quốc, rồi chảy vào địa

phận vùng Đông Bắc nước ta, có độ dài 469km. Đoạn chảy ở Việt Nam dài

276 km, tốc độ dòng chảy lớn nhất đạt 8.040m3/giây. Sông Lô có hai hợp lưu

lớn là: sông Chảy có chiều dài 319km, sông Gâm có chiều dài 280km. Nhánh

sông lớn của Sông Gâm là sông Năng (chảy ở địa phận tỉnh Bắc Kạn) có

chiều dài 108km.

+ Hệ thống sông Thái Binh: do 3 con sông chính hợp thành (sông cầu dài

288km; sông Thương dài 164km; sông Lục Nam dài 175km). Các con sông này

chảy qua địa phận của các tỉnh: Lạng Sơn, Băc Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn,

Bắc Ninh). Diện tích lưu vực (F) của sông Thái Bình đến Phả Lại (tỉnh Hải

Dương) là 15.520km2. Đến Phả Lại, hệ thống sông Thái Bình được nối sông

Hồng bỏi sông Đuống, sau đó được chia ra nhiều phụ lưu gồm: sông Kinh

Thầy (đoạn chảy ra biển giáp với Quảng Ninh và Hải Phòng có tên là sông

Bạch Đằng), sông Kinh Môn, sông Bình. Đoạn cuôi của sông Thái Bình chia ra

12

hai nhánh sông Chanh và sông Luộc (sông Luộc cũng là sông nốì giữa sông

Thái Bình và sông Hồng).

Hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình thường có mùa lũ trùng với thời

gian mưa nhiều từ tháng 6 đến tháng 10.

Ngoài các dòng sông trên, ở vùng Đông Bắc nưốc ta còn có các sông nhỏ ở

Quảng Ninh (có F: 4.720km2), sông Kỳ Cùng ở Lạng Sơn (có F: ô.OOSkm2),

sông Bằng ở Cao Bằng (có F: ề.õGõkm2). (Sông Kỳ Cùng thuộc hệ thống sông

Bằng đổ vào sông Tây Giang ở Trung Quốc).

- Hệ thống sông miền Trung: thưòng bắt nguồn và chảy từ vùng núi

Trưồng Sơn ỏ phía Tây, hoặc vùng núi Tây Bắc của nước ta, chảy qua địa

phận các tỉnh ven biển miền Trung, đều ngắn và dốc, hay có lũ đột ngột.

Những con sông ỏ miền Trung là những điều kiện quan trọng để tạo nên

vùng đồng bằng duyên hải và các nền văn hoá ở đây như: Bàu Tró (Tp. Đồng

Hới, Quảng Bình), Núi Đọ, Đa Bút, Hoa Lộc, Đông Sơn (Thanh Hoá). Sa

Huỳnh, Chăm Pa (phân bố từ Quảng Bình đến hết Bình Thuận), vùng văn

hoá xứ Thanh, xứ Nghệ, xứ Huế, xứ Quảng.

Sông Mã: còn có tên gọi là Lôi Giang, Mã Tất Giang. Sông có độ dài

512km (đoạn chảy trên đất Lào 102km), F: 28.400km2. Sông Mã bắt nguồn từ

vùng rừng núi Pu Hua Lông (Mường Lát, Điện Biên), sau đó chảy sang Lào

nhận thêm nưốc của một con sông của Lào rồi chảy về Thanh Hoá. Tại huyện

Thọ Xương (Thanh Hoá) sông Mã hợp lưu vói sông Chu rồi đổ ra biển Đông.

Độ cao trung bình của lưu vực sông 760km, đỉnh núi cao nhất hơn 2.000m so

với mực nước biển.

Từ năm 1255, nhân dân ta đã bắt đầu xây dựng hệ thống đê sông Mã để

hạn chê lũ lụt ở vùng này có nhiều tên gọi.

Sông Cả: có nhiều tên gọi như sông Lam, sông Bến Thuỷ. Sông bắt nguồn

từ vùng rừng núi của Lào rồi chảy sang Việt Nam qua địa phận các tỉnh Hà

Tình, Nghệ An. Sông có chiều dài 530km (đoạn chảy qua Lào dài 170km) và

F: 27.224km2. Thượng nguồn sông cả có hai nhánh sông lớn hợp nhau tại cửa

Rào: Nhánh phải là Nậm Mộ, nhánh trái là Nậm Xơn. Từ cửa Rào khi chảy

qua Con Cuông (Nghệ An), sông cả nhận thêm nước của sông Hiếu (có chiều

dài 228km). Sông Hiếu bắt nguồn từ dãy núi Pú Hoạt cao 2.452m. Cách cửa

sông 30km, sông cả nhận thêm nước của sông Ngàn Sâu (dài 135km, sông

này bắt nguồn từ vùng núi Trường Sơn nơi có đỉnh Rào cỏ cao 2.235m).

Sông Gianh: có chiều dài 158km và F: 4.676km2. Thượng nguồn của sông

vùng rừng núi đá vôi của Lào và của tỉnh Quảng Bình, chảy qua nhiều hang

động đẹp của vườn quốc gia Phong Nha — Kẻ Bàng. Sông Gianh là hợp lưu của

các sông: sông Son (sông Troóc), sông Rào Nan, sông Kiến Giang, đoạn chảy

qua thành phô' Đồng Hới ra biển có tên là Nhật Lệ. Đây là dòng sông lịch sử:

diễn ra cuộc chiến tranh giữa chúa Trịnh, chúa Nguyễn từ năm 1627 — 1672.

13

Sau đó sông Gianh trỏ thành ranh giới phân chia Đàng Trong, Đàng Ngoài

cho đến năm 1789. Sông Gianh được vua Minh Mạng cho khắc vào Chương

Đỉnh (trong cửu Đỉnh) đặt trong kinh thành Huế.

ẩong Bến Hải: (sôrig Rào Thành) bắt nguồn từ vùng núi Trưòng Sơn,

chảy dọc theo vĩ tuyến 17 (ranh giới giữa huyện Vĩnh Linh và Gio Linh tỉnh

Quảng Trị), rồi đổ ra biển Đông ở cửa Tùng. Chiều dài gần lOOkm, chảy từ

thượng nguồn được 80km, sông Bến Hải nhận thêm nước của sông Sa Lung;

khi chảy qua địa phận làng Minh Lương sông có tên là Minh Lương. Đến

thòi vua Minh Mạng, tên làng và sông được đổi thành Hiền Lương nên cầu

bắc qua đây có tên là Hiền Lương. Sông Bến Hải là dòng sông nhớ thương,

dòng sông lịch sử; ranh giới phân chia hai miền Bắc — Nam gần 20 năm sau

hiệp định Giơnevơ (từ ngày 20-7-1954 đến năm 1972, khi tỉnh Quảng Trị

được giải phóng).

Ngoài những dòng sông trên, ở khu vực miền Trung còn nhiều dòng sông

khác như: sông Thạch Hãn, sông Hiếu (Quảng Trị); sông Hương, sông Bồ,

sông Ô Lâu (Thừa Thiên Huê); sông Hàn (Đà Nẵng); sông Thu Bồn, sông Trà

Khúc (Quảng Nam, Quảng Ngãi); sông Côn (Bình Định), sông Đà Rằng, sông

Ba, sông Hĩnh (Phú Yên)...

- Những sông lớn ở Tây Nguyên và Nam Bộ

+ Hệ thống sông Đồng Nai: bắt nguồn từ vùng núi phía Bắc thuộc cao

nguyên Langbian ở độ cao 1.770m, sông Đồng Nai là hợp lưu và chia nước cho

nhiêu sông thuộc địa phận của tỉnh Lâm Đồng và các tỉnh Đông Nam Bộ.

Dòng chính của sông Đồng Nai từ thượng nguồn đến khi hợp nguồn với sông

Sài Gòn dài 520km. Sau khi hợp hai nhánh Đa Dung và Đa Nhim, sông Đồng

Nai bao lấy sông La Ngà, sau đó hợp lưu với sông Bé.

Sông Sài Gòn: bắt nguồn từ cao nguyên Hoa Quan khi chảy đến mũi

Đèn Đỏ (huyện Nhà Bè) thì nhập vối sông Đồng Nai làm thành sông Nhà

Bè. Tại đây, nó tách thành 2 nhánh Lòng Tàu và Soài Rạp. Sông Đồng Nai

ra biển Đông qua cửa cần Giờ, nơi đây có khu bảo tồn thiên nhiên thế giới

Cần Giờ với sự đa dạng sinh học cao. Hàng năm, sông Đồng Nai đổ ra biển

30,6 triệu m:i nước. Mùa lũ trên sông diễn ra từ tháng 7 đến tháng 10, có năm

xảy ra vào tháng 11.

Sông Đồng Nai có trữ lượng thuỷ năng ước đạt 31 tỷ km/h, sông Bé có

nguồn thuỷ năng ước tính 9 tỷ km/h.

Hiện nay, đã có nhiều nhà máy thuỷ điện được xây dựng như: Trị An vối

công suâ't 400 MW, Hàm Thuận với công suất 300 MW, Đa Mi (trên sông La

Ngà) với công suất 175 MW, Đa Nhim (trên sông Đa Nhim) với công suất 160

MW, Đồng Nai 3, 4 (trên sông Đồng Nai) với công suất 536 MW.

+ Sông Mê Kông: bắt nguồn từ núi Tanghla Shan trong dãy Himalaya

thuộc cao nguyên Tây Tạng, cao 5.000m. Sông Mê Kông chảy qua 6 quốc gia:

14

Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam với chiều dài

4.800km, đứng-thứ 7 thê giới. Sông chảy vào Việt Nam từ An Giang chia thành

2 nhánh chính (Tiền Giang và Hậu Giang), sau đó chia thành 9 nhánh sông để

đổ ra biển Đông, nên có tên là cửu Long. Sông Mê Kông có F: 795.000km2 (ở

địa phận Việt Nam có F khoảng 50.000km2).

Hàng năm, sông Mê Kông đưa ra biển 550 tỷ m3nước, sông Mê Kông đã

bồi đắp nên các vùng đồng bằng màu mỡ của Lào, Campuchia, Myanmar,

Thái Lan và Việt Nam.

Ngoài hệ thốhg sông cửu Long, vùng đồng bằng này còn có hệ thống kênh

rạch đào dày đặc thuận lợi cho phát triển giao thông, tưối tiêu, nuôi trồng,

đánh bắt thuỷ sản và phát triển du lịch sông nưốc.

Sông Tây Nguyên, ngoài sông Đồng Nai, vùng Tây Nguyên còn có các

sông lớn như sông Sê San sông Sêrêpôk bắt nguồn từ vùng rừng núi Tây

Nguyên chảy qua các tỉnh Kon Turn, Đắk Lắk, Đắk Nông rồi đổ vào sông Mê

Kông ở Campuchia. Nhiều nhà máy thuỷ điện đã được xây dựng tròn hai sông

này như: Yaly, Sê San 3, 4 trên sông Sê San; Sre Pok 3, 4, Buôn Knôp,

DrâyHLinh (trên sông Sre Pok)...

"Núi có tích và sông có nguồn", các con sông của nước ta thường có tên gọi

phản ánh đặc điểm của chê độ dòng chảy hoặc đặc điểm của nước, cấu tạo của

dòng chảy: như sông Mã vì có tốc độ dòng chảy lớn; sông Hồng vi nước có hàm

lượng phù sa cao, có màu đỏ; sông Lam vì nước trong xanh; sông Mê Kông đổ

ra biển bằng 9 cửa nên có tên gọi là sông cửu Long...

Khi nghiên cứu về sông phục vụ cho mục đích du lịch cần nghiên cứu tên,

nơi xuất phát của sông, độ dài của sông, đặc điểm lưũ vực sông, cấu tạo của

dòng chảy, tốc độ dòng chảy, thành phần của nước, đặc điểm nưóc và ý nghĩa

về kinh tế môi trường, giao thông...

Nước ta có nhiều hồ lốn tạo phong cảnh đẹp, có giá trị điều hoà khí hậu,

cung cấp nưổc, thuỷ sản, có ý nghĩa lớn vối phát triển du lịch nghỉ dưỡng và

du lịch sinh thái.

Hồ của nước ta có hai nguồn gốc hình thành:

■ Hồ tự nhiên: Được hình thành do các quá trình kiến tạo và địa mạo, tên

gọi của các hồ thường găn vói các truyền thuyết đê giải thích lịch sử hình

thành hồ. Hồ tự nhiên được phân ra làm các loại:

Hồ được hình thành do quá trình sụt lún ở các vùng đồng bằng không đều,

song do quá trình đắp đê, việc bồi đắp phù sa không được tiếp tục như các hồ

nhỏ ở Hà Nội gồm: hô Thủ Lệ, hồ Giảng Võ, hồ Định Công, Linh Đàm, hồ

Đông Đa, hồ Ngọc Khánh...

Hồ được hình thành do quá trình đối dòng của các sông như Hồ Tây, hồ

Hoàn Kiêm, đầm Vạc, đầm Dạ Trạch...

Hồ được hình thành do quá trình đứt gẫy của địa hình kết hợp với quá

trình địa mạo như hồ Ba Bê (Bắc Kạn), Ba Hồ ở Khánh Hoà...

15

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!