Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tư tưởng trị nước thời Lê Sơ và ý nghĩa lịch sử của nó
PREMIUM
Số trang
166
Kích thước
1.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1325

Tư tưởng trị nước thời Lê Sơ và ý nghĩa lịch sử của nó

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

viÖn hµn l©m

khoa häc x· héi ViÖt Nam

häc viÖn khoa häc x· héi

ng« v¨n h-ëng

T- t-ëng trÞ n-íc thêi Lª S¬

vµ ý nghÜa lÞch sö cña nã

Chuyªn ngµnh : TriÕt häc

M· sè : 62 22 03 01

luËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc

Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS.TS TrÇn Nguyªn ViÖt

Hµ néi – 2014

2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tư tưởng về đường lối trị nước, hay còn gọi là tư tưởng trị nước là một hình

thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Mặt

khác, nó đóng vai trò chỉ đạo thực hiện các chủ trương quản lý xã hội, quản lý nhà

nước về mọi mặt đời sống xã hội của một thể chế chính trị nhất định. Nghiên cứu tư

tưởng trị nước, theo chúng tôi, xuất phát từ hai yêu cầu cơ bản sau đây:

Thứ nhất, yêu cầu về mặt lý luận, coi tư tưởng trị nước là sự phản ánh ý chí,

chủ trương của các triều đại phong kiến trong lịch sử, đồng thời quyết định sự tồn

vong của mỗi triều đại. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng trị nước được

hình thành và phát triển cùng với sự thiết lập và hoàn thiện của bộ máy nhà nước

phong kiến. Ngoài sự phái sinh từ tồn tại xã hội, sự phản tư triết học với tư cách ý

thức xã hội bao giờ cũng có tính độc lập tương đối, tính vượt trước, nhờ đó mà thể

chế chính trị xác định đường lối phát triển đất nước trong các thời đoạn tiếp theo.

Mặt khác, tư tưởng trị nước cũng có thể được kế thừa biện chứng từ các học thuyết

chính trị - xã hội vốn có từ trước trong lịch sử, từng là công cụ hệ tư tưởng của

nhiều triều đại phong kiến. Chính vì vậy nghiên cứu tư tưởng trị nước trong một

giai đoạn cụ thể không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về giai đoạn lịch sử hào hùng

đó của dân tộc mà còn thấy được ở đó tư tưởng của các giai đoạn trước đó.

Nhờ có sự kế thừa những hạt nhân hợp lý, đồng thời tích hợp các hạt nhân

đó từ một số học thuyết mà nhà Lê Sơ đã hình thành nên đường lối trị nước khá phù

hợp với hoàn cảnh cụ thể của một đất nước vừa mới được giải phóng khỏi sự chiếm

đóng của nhà Minh suốt hơn 20 năm, với những nhiệm vụ vô cùng cấp bách trong

việc xây dựng vương triều cũng như khôi phục và phát triển đất nước. Những thành

tựu mà nhà Lê Sơ đã đạt được về các mặt chính trị, văn hóa, giáo dục và kinh tế là

nhờ đường lối trị nước dựa trên sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị. Đường lối trị

nước đó chính là kho tàng lý luận vô cùng quý báu của dân tộc ta, nhưng cho đến nay

nó vẫn chưa được khai thác triệt để. Mặt khác những kết quả nghiên cứu sẽ là luận cứ

khoa học đóng góp vào lĩnh vực khoa học xã hội nói chung và lĩnh vực lịch sử tư

tưởng nói riêng.

3

Thứ hai, yêu cầu về mặt thực tiễn từ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất

nước ta hiện nay. Đó là làm thế nào để xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã

hội dân chủ, công bằng và văn minh". Nghiên cứu tư tưởng về đường lối trị nước

trong lịch sử theo tinh thần "ôn cố nhi tri tân" để rút ra những bài học cụ thể cho sự

nghiệp to lớn đó của đất nước, tức là làm rõ không chỉ những giá trị mang tính

trường tồn và phổ biến từ các học thuyết chính trị - xã hội, mà cả những hạn chế cần

phải khắc phục, theo chúng tôi, rõ ràng là có ý nghĩa cấp thiết.

Chúng ta đang xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ

nghĩa vốn chưa có tiền lệ trong lịch sử, thì việc đánh giá lại những kinh nghiệm trị

nước, cách thức tổ chức và quản lý xã hội để khắc phục những hạn chế và tiếp thu

những kinh nghiệm tiến bộ của cha ông là việc làm cần thiết. Việc làm sao để hiện

thực hóa được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn

minh" tránh được các nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát triển đất nước luôn là vấn đề

quan tâm không chỉ của Đảng, Nhà nước mà là của tất cả những ai có ý thức trách

nhiệm đối với quốc gia, dân tộc. Ở Trung Quốc cũng có những vấn đề tương tự

được đề cập trong tài liệu "25 vấn đề lý luận cán bộ và quần chúng quan tâm" do

Cục Lý luận Ban Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc xuất bản gần đây có

hai vấn đề liên quan trực tiếp đến biện pháp lãnh đạo và quản lý xã hội là: "Trị quốc

theo pháp luật, xây dựng nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa" (vấn đề thứ 12) và

"kết hợp trị quốc theo pháp luật với trị quốc bằng đạo đức" (vấn đề thứ 13). Trong

đó các nhà nghiên cứu không quên nhắc lại tư tưởng của các triết gia Trung Quốc

như Khổng Tử, Quản Trọng, Hàn Phi về tư tưởng trị nước, trong đó "chủ trương

của Khổng Tử đã gợi mở cho chúng ta rằng tự giác đạo đức và ràng buộc pháp luật

liên hệ với nhau, là điều không thể thiếu trong quá trình trị quốc" [xem:15, tr. 148].

Về vấn đề này Văn kiện Hội nghị lần thứ Chín khóa IX của Đảng ta cũng đã chỉ ra:

Điều làm cho nhân dân còn bất bình và lo lắng nhiều là tình trạng

quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân, suy thoái về tư tưởng

chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của một số cán bộ đảng viên vẫn

còn nghiêm trọng và khá phổ biến. Thực trạng trên đây cùng với tình trạng

4

buông lỏng kiểm tra đánh giá là điều bức xúc nhất hiện nay và đang hạn

chế việc phát huy những thắng lợi mà chúng ta đã đạt được [31, tr. 72].

Có thể nói, đó là những vấn đề muôn thuở của chính trị học mà việc giải

quyết nó không thể thiếu kinh nghiệm lịch sử mà thời Lê Sơ đã để lại cho chúng ta

ngày nay. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi lựa

chọn đề tài "Tư tưởng trị nước thời Lê Sơ và ý nghĩa lịch sử của nó" với hy vọng

góp phần nhỏ bé của mình vào lĩnh vực nghiên cứu cơ bản về lịch sử tư tưởng triết

học Việt Nam cũng như sự nghiệp đổi mới về mọi mặt đời sống chính trị - xã hội của

đất nước ta hiện nay do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

* Mục đích:

Luận án trình bày những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành và nội dung cơ

bản của tư tưởng trị nước thời Lê Sơ, trên cơ sở đó chỉ ra những giá trị và bài học lịch

sử của tư tưởng đó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

nước ta hiện nay.

* Nhiệm vụ:

Để đạt được mục đích nói trên, luận án cần giải quyết những nhiệm vụ cơ

bản sau đây:

Một là, trình bày một cách khái quát và có hệ thống các điều kiện, tiền đề

cho sự hình thành và thực hiện tư tưởng trị nước của thời Lê Sơ.

Hai là, làm rõ nội dung và thực chất của tư tưởng trị nước thời Lê Sơ, sự cụ

thể hóa tư tưởng đó trong đời sống hiện thực của xã hội, từ đó đánh giá những mặt

tích cực và hạn chế của nó.

Ba là, làm rõ vai trò và rút ra những bài học lịch sử của tư tưởng trị nước

thời Lê Sơ đối với việc lãnh đạo và quản lý đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.

3. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án

* Cơ sở lý luận:

Để xác định đúng những giá trị và hạn chế của tư tưởng trị nước trong các

triều đại phong kiến, đồng thời khẳng định những giá trị có thể kế thừa vận dụng

vào quản lý xã hội hiện đại, trong việc nghiên cứu tư tưởng trị nước thời Lê Sơ,

luận án xuất phát từ quan niệm duy vật về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã

5

hội và ý thức xã hội, về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện qua sự

tác động tích cực của nó đối với tồn tại xã hội và sự tương tác giữa các hình thái ý

thức xã hội làm cơ sở lý luận chủ yếu. Ngoài ra, chúng tôi có dựa trên tư tưởng Hồ

Chí Minh, quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

để đánh giá về tính hạn chế và tích cực của tư tưởng trị nước thời Lê Sơ làm cơ sở

để rút ra ý nghĩa và bài học lịch sử từ tư tưởng trị nước thời này.

* Phương pháp nghiên cứu:

Để thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng các phương pháp của lịch sử triết học

mácxít, chủ yếu là phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, thống nhất giữa tính

lịch sử cụ thể và lôgíc, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án

* Đối tượng nghiên cứu:

Tư tưởng về đường lối trị nước của triều đại Lê Sơ (1428 - 1527) và ý nghĩa

lịch sử của tư tưởng đó đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.

* Phạm vi nghiên cứu:

Luận án khảo cứu tư tưởng trị nước trong lịch sử chế độ phong kiến Việt

Nam thông qua các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê, Lý - Trần; đồng thời đối chiếu,

so sánh tư tưởng trị nước của các triều đại đó với triều đại Lê Sơ. Trên cơ sở đó,

bước đầu đưa ra những đánh giá khái quát những mặt tích cực và hạn chế của tư

tưởng trị nước thời Lê Sơ, chỉ ra những bài học lịch sử hữu ích có thể kế thừa, vận

dụng trong công tác quản lý xã hội, quản lý đất nước ta giai đoạn hiện nay.

5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án

Luận án là công trình nghiên cứu khoa học cơ bản, trình bày một cách hệ

thống và phân tích chuyên sâu tư tưởng trị nước của triều đại Lê Sơ dưới góc độ

lịch sử tư tưởng triết học. Cụ thể luận án có những điểm mới sau:

- Luận án khẳng định những tư tưởng, quan điểm và cách lựa chọn đường

lối trị nước của triều đại Lê Sơ (1428 - 1527) là sản phẩm nảy sinh từ tồn tại xã hội

hiện thực của thế kỷ XV - XVI, trên cơ sở có sự kế thừa những học thuyết, quan

điểm trị nước của Trung Hoa và các triều đại phong kiến Việt Nam trước đó.

- Luận án hệ thống hóa và phân tích những quan điểm trị nước cũng như

cách thức trị nước của triều đại Lê Sơ để khẳng định tính qui định của tồn tại xã hội

6

đối với ý thức xã hội, cụ thể là tính tất yếu của đường lối cai trị dựa trên sự kết hợp

đức trị với pháp trị đương thời.

- Luận án chỉ ra những giá trị tích cực và hạn chế trong tư tưởng trị nước

của triều đại Lê Sơ, đồng thời rút ra những bài học lịch sử về chính sách an dân bằng

đề cao nhân nghĩa, trọng dân; trị nước bằng sự kết hợp đức trị với pháp trị nhưng

không kém phần nhân bản, nhân văn; bài học về xây dựng đội ngũ cán bộ v.v... đối

với việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta

hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

* Về mặt lý luận:

Luận án là công trình có ý nghĩa trong việc hệ thống hóa các quan điểm trị

nước của các học thuyết trong lịch sử phong kiến Trung Hoa và Việt Nam; làm rõ

sự phát triển của tư tưởng trị nước trong chế độ phong kiến Việt Nam nói chung và

của triều đại Lê Sơ nói riêng; bước đầu đánh giá những mặt hạn chế và tích cực của

tư tưởng trị nước trong giai đoạn này. Kết quả nghiên cứu của luận án là sự đóng

góp cho kiến thức lý luận về lịch sử, lịch sử tư tưởng, tư tưởng chính trị và quản lý

xã hội, góp thêm luận cứ khoa học cho thực tiễn quản lý xã hội ở nước ta hiện nay

cũng như cho sự phát triển của khoa học lịch sử tư tưởng ở Việt Nam.

* Về mặt thực tiễn:

Luận án có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác giảng dạy và

học tập chuyên ngành Lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt Nam cũng như cho

các đối tượng làm công tác quản lý xã hội muốn tìm hiểu kinh nghiệm trị nước

trong lịch sử.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận án gồm 4 chương, 13 tiết.

7

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Ở Việt Nam cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về thời Lê Sơ.

Tuy nhiên, các công trình đó thường chỉ tập trung vào một lĩnh vực nhất định, thậm

chí một khía cạnh nổi bật nào đó của triều đại này, hoặc về cá nhân một vị hoàng đế

cụ thể mà chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu về tư tưởng trị nước

của cả thời kỳ như một chỉnh thể. Dù thế nào đi nữa, những công trình nghiên cứu

đi trước về thời Lê Sơ đều là cơ sở và nguồn tài liệu quan trọng giúp chúng tôi hoàn

thành được luận án của mình. Do đây là một giai đoạn thịnh trị, mang tính khuôn

mẫu và điển hình trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, cho nên số lượng các

công trình nghiên cứu về nó khá lớn. Nghiên cứu về giai đoạn này, ngoài những bộ

sử đương thời còn có một số công trình nghiên cứu mang tính tập trung được các

nhà nghiên cứu tiến hành từ cuối thế kỷ XIX đến nay. Từ tình hình nghiên cứu như

vậy, chúng tôi phân định một cách sơ bộ các công trình nghiên cứu về thời Lê Sơ

theo các lĩnh vực sau đây.

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỜI LÊ SƠ CÓ ĐỀ CẬP

ĐẾN CÁC KHÍA CẠNH CỦA TƢ TƢỞNG TRỊ NƢỚC

Những công trình nghiên cứu dƣới góc độ lịch sử về thời Lê Sơ:

Đặc điểm của các công trình nghiên cứu này được thể hiện ở chỗ, các tác

giả hệ thống hóa các sự kiện diễn ra trong thời đại Lê Sơ theo trình tự thời gian và

đặt nó trong toàn bộ tiến trình lịch sử. Ở lĩnh vực này ngoài những bộ sử lớn như

Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Khâm định Việt sử thông

giám cương mục… còn có một số công trình tiêu biểu khác, cụ thể:

Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim xuất bản lần đầu vào năm 1919.

Trong công trình này, khi đề cập đến thời Lê Sơ, đặc biệt giai đoạn Lê Thánh Tông,

tác giả Trần Trọng Kim đã đưa ra nhận xét, cho rằng: "Xem những công việc của vua

Thánh Tông thì ngài thật là một đấng anh quân. Những sự văn trị và sự võ công ở nước

Nam ta không có đời nào thịnh hơn đời Hồng Đức" [51, tr. 267]. Về cách thức cai trị

bằng sự kết hợp "võ công với văn trị" như một tất yếu lịch sử dưới thời Lê Sơ, ông

nhận xét: "Trong nước bấy giờ có nhiều người du đãng cứ rượu chè cờ bạc, không

8

chịu làm ăn tử tế, vậy nên đặt ra phép nghiêm để trừng trị (…) sự nghiêm phạt như

thế, thì có thái quá thật, nhưng mà cũng có công hiệu, khiến cho trong nước bớt có

thứ người cả đời không chịu làm gì, chỉ đi đánh lừa người mà kiếm ăn" [51, tr. 253].

Trần Trọng Kim cũng đánh giá cao những đóng góp của các vị vua đầu

triều đại này, đặc biệt là Lê Thái Tổ và Lê Thánh Tông về các phương diện kinh tế,

văn hóa, giáo dục và tình hình lập pháp. Đó là việc "Vua Thái Tổ định ra phép quân

điền, để lấy công điền, công thổ mà chia cho mọi người, từ quan đại thần cho đến

những người già yếu cô quả, ai cũng có một phần ruộng khiến cho sự giàu nghèo

trong nước khỏi chênh lệch lắm" [51, tr. 253]; vua Lê Thánh Tông "nối nghiệp lớn

không ngừng mở mang bờ cõi (…) mở nhà tế bần để nuôi dưỡng người đau yếu, sai

quan đem thuốc đi chữa bệnh cho người đau yếu… Ngài lại đặt ra 24 điều, sức

giảng cho dân xã để giữ lấy thói tốt" [51, tr. 260].

Tuy nhiên, công trình Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chủ yếu tập

trung vào hai vị vua tiêu biểu của thời Lê Sơ là Lê Thái Tổ và Lê Thánh Tông mà

chưa phản ánh được tư tưởng trị nước của cả triều đại này với tư cách là một hệ

thống, nghĩa là chưa làm rõ cơ sở hình thành cũng như nguyên nhân sâu xa của sự

suy vong của triều đại này từ Lê Uy Mục về sau, cho nên những hạn chế trong tư

tưởng trị nước thời kỳ này không được tác giả đề cập đến một cách cụ thể.

Trong cuốn Việt Nam lịch sử giáo trình của tác giả Đào Duy Anh, xuất bản

năm 1951 cũng đề cập đến triều đại Lê Sơ nhưng không đi sâu vào phân tích về mặt

tư tưởng trị nước mà chỉ đưa ra những nhận xét khá chung về cả triều đại này, cho

rằng "thời Lê Sơ là đỉnh cao nhất của chế độ phong kiến Việt Nam" [1, tr. 42].

Một công trình khác của Đào Duy Anh là cuốn Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc

đến thế kỷ XIX, xuất bản lần đầu năm 1956, đã dành một dung lượng lớn để đánh giá

bước phát triển của nhà nước phong kiến tập quyền thời Lê Sơ. Nhận xét về những

điều kiện thành công của Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh, tác giả viết:

Một trong những yếu tố quan trọng của cuộc thành công là sự

ủng hộ của nhân dân. Quân đội thì kỷ luật rất nghiêm, không giết càn,

không xâm phạm đến mảy may của dân cho nên đến đâu là nhân dân nô

nức hoan nghênh và ủng hộ. Đối với nhân dân thì Lê Lợi chăm chú vỗ

về, và rất lưu ý gây tình đoàn kết giữa quan và dân [2, tr. 323].

9

Trong công trình này Đào Duy Anh đã chú trọng việc trình bày cách thức tổ

chức và điều hành của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền cao độ của triều

đại Lê Sơ, tuy nhiên, theo tác giả, "chế độ quan liêu do Lê Lợi đặt còn sơ sài. Trải

qua các đời Nguyên Long và Bang Cơ có thay đổi ít nhiều. Nhưng đến Tư Thành

thì các chế độ đều được chỉnh đốn lại rất chu đáo thành một hệ thống phiền phức và

chặt chẽ" [2, tr. 328]. Tính chặt chẽ của chế độ đó thể hiện ở sự thiết lập và vận

hành hệ thống luật pháp để thực hiện mục đích tối thượng là "bảo vệ đặc quyền của

giai cấp quý tộc quan liêu, tức là giai cấp thống trị phong kiến" [2, tr. 331].

Nhìn chung, công trình nghiên cứu của Đào Duy Anh đã phác họa được khá

nhiều khía cạnh trong đường lối cai trị, nhưng với công trình nghiên cứu dưới góc

độ sử học thì tác giả mới chỉ dừng lại ở sự liệt kê các sự kiện mà chưa đi vào phân

tích cụ thể những nội dung trong các khía cạnh đó. Tác giả cũng không đề cập đến

những điều kiện và tiền đề cho việc ra đời, sử dụng đường lối cai trị của thời Lê Sơ.

Một học giả sống dưới chế độ cũ trước năm 1975 là Phạm Văn Sơn trong cuốn

Việt sử tân biên - Trần Lê thời đại, xuất bản năm 1958 cũng có những nhận xét khá

tinh tế về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa…đặc biệt là thời vua Lê Thái Tổ và

Lê Thánh Tông. Khi đề cập đến Quốc triều hình luật, bộ luật dưới thời Lê Thánh

Tông, tác giả chú trọng đến việc trình bày các quy định của bộ luật này về các quyền

lợi của quan lại và người dân, khẳng định "một xã hội có trật tự là xã hội <mà ở đó>…

luật pháp phải giới hạn quyền lợi cá nhân và điều hòa quyền lợi cá nhân với quyền

lợi công cộng" [99, tr. 554]. Từ đó tác giả khẳng định vai trò của Quốc triều hình

luật là nhằm đề phòng sự nhũng nhiễu dân chúng của quan lại cũng như giới hạn hành

vi của dân chúng.

Trong một số công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam xuất bản trước

năm 1975, khi đề cập đến thời Lê Sơ các học giả cũng đưa ra những nhận xét ít

nhiều liên quan đến tư tưởng trị nước hoặc các lĩnh vực nhất định của thời kỳ này.

Chẳng hạn, trong lời tựa của bản dịch Hồng Đức thiện chính thư, do Trường Luật

khoa Sài Gòn dịch và xuất bản năm 1959, tác giả Vũ Văn Mẫu viết:

Song song với những chiến công oanh liệt (…), các vua nhà Lê,

nhất là trong thế kỷ XV còn hướng mọi sự cố gắng vào việc trị nước an

dân, ban hành một nền pháp chế có một tinh thần đặc sắc Việt Nam, vừa

10

phù hợp với nhu cầu của quốc gia, vừa thỏa mãn các nguyện vọng chân

chính của quốc dân [116, tr. 29].

Tác giả Phan Huy Lê trong cuốn Đại cương lịch sử Việt Nam, xuất bản năm

1959, thì đưa ra nhận xét:

Các vua thời Lê Sơ, đặc biệt là Lê Lợi có chăm lo đến đời sống

nhân dân và đề ra được một số chính sách biện pháp cứu tế xã hội ít nhiều

có tác dụng thực tế <…> các đời vua sau cũng có tiếp tục chính sách

"khinh hình bạc liễm" <…> Trong một xã hội phong kiến tất nhiên

những chính sách tốt đẹp ấy không thể thực hiện được đầy đủ nhưng ít

nhất cũng phản ánh một thái độ quan tâm của nhà nước đối với đời sống

nhân dân [55, tr. 38].

Cuốn Lịch sử Việt Nam, (tập 1) do Ủy ban Khoa học xã hội xuất bản năm

1971, nhận xét về thời Lê Sơ cũng có đánh giá về tính tích cực trong đường lối cai

trị của triều đại này đối với nhân dân như sau: "Trong thế kỷ XV, khi nền sản xuất

đang phát triển, chính quyền còn chăm lo đến kinh tế thì đời sống của nông dân và

nhân dân lao động nói chung còn tương đối ổn định" [118, tr. 274].

Trong bài viết Thử căn cứ vào Bộ luật Hồng Đức để tìm hiểu xã hội Việt

Nam thời Lê Sơ của tác giả Văn Tân, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 46 -

1963, tác giả đã xuất phát từ những điều luật trong Quốc triều hình luật để phân

tích xã hội thời Lê Sơ trên các phương diện như chế độ sở hữu ruộng đất, sự phát

triển của giai cấp địa chủ, hạn chế sự bành trướng của Phật giáo và trọng Nho,

chống tham ô, nhũng nhiễu dân của quan lại, trách nhiệm của quan lại đối với dân,

bảo vệ quyền con người… Khi phân tích về việc nhà Lê hạn chế Phật giáo và Đạo

giáo, tác giả viết:

Yêu cầu phát triển của xã hội Việt Nam hồi thế kỷ XV là phải

hạn chế sự bành trướng của Phật giáo… Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế.

So với đời Trần số chùa cũng ít đi, số tăng nhân lại càng ít nữa. Nhà nước

phong kiến chú ý kiểm soát sự đi lại của tăng nhân và đạo sĩ, có lẽ vì những

người này không thỏa mãn với chế độ mới của nhà Lê [105, tr. 29].

Trong bài viết của tác giả Văn Tân, đáng lưu ý nhất là phần đánh giá sự

phát triển về quyền con người trong pháp luật nhà Lê. Về điều này tác giả viết:

11

Trong xã hội phong kiến ở phương Đông, con người bị trói chặt

vào các quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng (tam cương); bầy tôi phải

phục tùng vua, con phải phục tùng cha, vợ phải phục tùng chồng, kẻ dưới

phải theo kẻ trên, quyền lợi của kẻ dưới không được coi trọng. Quyền lợi

cá nhân trong xã hội phong kiến, vì vậy, ít được xem trọng. Nhưng xét

pháp luật thời Lê Sơ, chúng ta đã thấy lấp ló những quyền lợi của cá

nhân, con người, cụ thể là con người bị áp bức đã được coi trọng một

phần nào [105, tr. 28].

Đồng thời, trong bài viết này, tác giả đã căn cứ vào những điều khoản của

Quốc triều hình luật để đánh giá xã hội Lê Sơ. Tuy nhiên, những đánh giá này chỉ

căn cứ vào bộ luật mà bộ luật đó lại do giai cấp thống trị thời đó ban hành thì tất

yếu không tránh được sự phiến diện.

Tóm lại, những công trình nghiên cứu lịch sử khi đề cập đến thời Lê Sơ dù

ít nhiều có đưa ra những nhận xét về tư tưởng trị nước của triều đại này, nhưng

những nhận xét đó thường gắn với một số vị vua tiêu biểu và còn mang tính rời rạc,

chủ quan, chưa thành hệ thống cũng như chưa chỉ ra được cơ sở cho việc hình thành

đường lối cai trị của triều đại này.

Những công trình nghiên cứu về nhà nƣớc, luật pháp và bộ máy cai trị

thời Lê Sơ:

Đặc điểm của loại hình này là các nhà nghiên cứu chỉ tập trung vào nghiên cứu

về khía cạnh thay đổi của bộ máy hành chính và bộ luật hình ra đời trong thời Lê Sơ

mà hầu như không đề cập đến các khía cạnh khác của xã hội thời Lê Sơ. Ở loại hình

này có thể kể đến các công trình như:

Bài viết Suy nghĩ về cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông, của tác

giả Trương Hữu Quýnh cho Hội thảo Lê Thánh Tông (1442 - 1497) con người và sự

nghiệp đã lý giải nguyên nhân dẫn đến cuộc cải cách bộ máy hành chính của vua Lê

Thánh Tông. Theo tác giả, nguyên nhân cải cách của Lê Thánh Tông vừa là yêu cầu

của thực tiễn, vừa thể hiện ý chí chủ quan của vị vua này. Lê Thánh Tông đã tiến

hành cải cách bộ máy hành chính trên năm nội dung: Một là, bỏ hết các quan chức

và cơ quan trung gian giữa vua và bộ phận thừa hành; hai là, tách sáu bộ Lại, Lễ,

Binh, Hình, Hộ, Công khỏi Thượng thư sảnh theo mô hình như nhà Minh đã làm;

12

ba là, Lê Thánh Tông đề cao công tác thanh tra, giám sát bằng cách đặt sáu khoa

chuyên theo dõi, giám sát hành động của các cơ quan sáu bộ; bốn là, đặt sáu tự để

phụ trách các công việc phụ; năm là, bỏ chế độ bổ dụng các vương hầu, quý tộc vào

các trọng chức của triều đình, lấy những người đỗ đạt qua khoa cử không phân biệt

thành phần xuất thân. Tuy nhiên, cuộc cải cách này cũng chứa đựng nhiều những

hạn chế của nó và ít nhiều không phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ [xem: 21].

Bài viết của Trương Hữu Quýnh, đúng như tên gọi của bài viết này, chỉ

dừng lại ở việc tìm hiểu cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông mà không đề

cập đến các lĩnh vực khác như: kinh tế, văn hóa cũng như luật pháp của thời Lê Sơ vì

vậy công trình này chưa thể thể hiện được toàn bộ nội dung tư tưởng trị nước của

thời Lê Sơ.

Bài viết Cải cách quan lại địa phương dưới thời Lê Thánh Tông của tác giả

Nguyễn Hoàng Anh trong hội thảo khoa học Lê Thánh Tông (1442-1497) con người

và sự nghiệp, tác giả Nguyễn Hoàng Anh đã tập trung phân tích công cuộc cải cách

quan lại của Lê Thánh Tông, chủ yếu trên phương diện tuyển dụng, quản lý, sử

dụng quan lại địa phương và phân định chức năng, quyền hạn và chế độ đãi ngộ đối

với quan lại của triều đại Lê Thánh Tông.

Về vấn đề tuyển dụng quan lại địa phương, tác giả nhận xét rằng, thời Lê

Thánh Tông quan lại địa phương chủ yếu được lựa chọn thông qua con đường khoa

cử. Ngoài ra, việc lựa chọn quan lại còn thông qua con đường khác như tiến cử, bảo

cử và nộp thóc. Đánh giá chung về cách tuyển dụng quan chức thời Lê Thánh Tông,

tác giả viết: "Quy chế tuyển chọn, bổ dụng quan lại của Lê Thánh Tông đã thấm

nhuần tư tưởng: một mặt nâng cao chất lượng quan lại, mặt khác tích cực ngăn ngừa

nạn cát cứ bè cánh địa phương nhằm tạo lập đội ngũ quan lại địa phương mạnh và

tuân phục triều đình" [3, tr. 176].

Việc phân định chức năng, quyền hạn và nghĩa vụ của quan lại địa phương

cũng được các vua Lê, đặc biệt là Lê Thánh Tông phân định khá cụ thể và rạch ròi.

Đi kèm với nó là chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho quan lại, đồng thời đem lại nhiều giá

trị tích cực cho xã hội. Tuy nhiên, bộ máy quan lại dưới thời Lê Thánh Tông, theo

tác giả, "vẫn chỉ là bộ máy mang tính cai trị thuần túy, ít mang tính tổ chức - xây

dựng đời sống xã hội đương thời" [3, tr. 177].

13

Mặc dù Nguyễn Hoàng Anh tập trung nghiên cứu chuyên sâu về bộ máy

quan lại và vấn đề cải cách bộ máy này, song công trình này chỉ dừng lại ở việc xem

xét việc cải cách quan lại địa phương, do đó vấn đề qui định chính sách tuyển dụng

và sự cụ thể hóa nó dựa trên những điều khoản luật pháp mà nhà Lê sử dụng để

trừng trị quan lại khi vi phạm chưa được làm rõ.

Bài viết "Vài nét về sự thay đổi hành chính và tổ chức chính quyền địa

phương dưới triều Lê Thánh Tông (1460 - 1497)" của tác giả Nguyễn Đức Nhuệ in

trong cuốn Lê Thánh Tông (1442-1497) con người và sự nghiệp. Trong bài viết này,

tác giả đã nghiên cứu cách thức chia cắt địa phận hành chính trên phạm vi cả nước

dưới thời Lê Thánh Tông. Nguyên do chủ yếu của việc làm này theo tác giả là vì thời

đó lãnh thổ luôn được mở mang thêm, buộc triều đình phải phân định lại địa giới

hành chính. Theo đó, chia đất nước thành 13 đạo thừa tuyên, so với thời Lê Thái Tổ

chỉ có 5 đạo. Tuy nhiên, bài viết này chủ yếu mô tả về cách chia định địa giới hành

chính mà không bàn về những biến đổi về cách thức cai trị tương ứng của nhà Lê.

Nghiên cứu về cải cách hành chính của nhà Lê Sơ, còn có cuốn "Mười cuộc

cải cách, đổi mới lớn trong lịch sử Việt Nam" của tác giả Văn Tạo, Nhà xuất bản

Đại học Sư Phạm Hà Nội ấn hành năm 2006. Trong cuốn sách này Văn Tạo xếp cải

cách hành chính của Lê Thánh Tông vào mười cuộc cải cách lớn của lịch sử Việt

Nam, bên cạnh các cuộc cải cách của họ Khúc, của Hồ Quý Ly, của Minh Mệnh…

Theo tác giả, thời Lê Sơ giai đoạn trước Lê Thánh Tông triều đình rơi vào khủng

hoảng sau sự kiện Lê Nghi Dân cướp ngôi và sự lộng hành của triều thần. Sau khi

lên ngôi, Lê Thánh Tông thực hiện việc cải cách gồm năm khâu: đẩy mạnh pháp trị

Khổng giáo; đặt ra Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng; xóa bỏ cơ chế hành chính nhiều tầng

nhiều cấp với các lộ, trấn, phủ, châu;… thống nhất chia đất nước thành 13 xứ thừa

tuyên; cải cách chế độ quan lại, tuyển dụng quan nha qua khoa cử và tiến cử; phát

triển văn hóa, xã hội, phát huy tác dụng của Quốc Tử Giám, lập hội Tao Đàn, sử dụng

chữ Nôm, phát triển thơ văn yêu nước [103, tr. 116-145]. Theo tác giả cải cách hành

chính của Lê Thánh Tông là cuộc cải cách thành công sau cải cách hành chính của

họ Khúc, đưa xã hội Đại Việt thịnh trị vào bậc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến.

Vấn đề pháp luật thời Lê Sơ, cũng có khá nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm.

Những công trình nghiên cứu về pháp luật giai đoạn này chủ yếu tập trung vào bộ

14

Quốc triều hình luật của nhà Lê theo những khía cạnh khác nhau trong vấn đề lập pháp,

sử dụng pháp luật và giá trị của bộ luật này. Trong số đó đáng chú ý là các cuốn sách

"Quốc triều hình luật: lịch sử hình thành, nội dung và giá trị" do tác giả Lê Thị Sơn

làm chủ biên; Quốc triều hình luật những giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây

dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp kết

hợp với trường Đại học Hồng Đức biên soạn. Trong các công trình này, nhiều tác giả đã

cố gắng lý giải, làm rõ thêm vấn đề về sự hình thành nhà nước, cách cai trị, kinh tế - xã

hội, v.v... Trong đó đáng chú ý đến những bài viết đề cập đến tư tưởng trị nước như:

"Nước Đại Việt thời Lê Sơ - một vài đặc điểm căn bản của nền tảng chính

trị, kinh tế, văn hóa - xã hội" của tác giả Nguyễn Hải Kế. Khi nghiên cứu về thời Lê

Sơ, Nguyễn Hải Kế đã đi tìm hiểu triều đại này từ bối cảnh chung đến những đặc

điểm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Tác giả đã chia triều đại Lê Sơ thành ba

giai đoạn cơ bản: giai đoạn thứ nhất từ năm 1428 đến 1459, tức là từ khi Lê Thái Tổ

lên ngôi đến hết thời Nghi Dân. Đây là giai đoạn hình thành và phát triển của triều

đại, ở đó đã xuất hiện những khủng hoảng chính trị như việc giết hại các công thần

và binh biến cung đình; giai đoạn thứ hai tính từ khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi

đến hết thời vua Lê Hiến Tông (năm 1504). Đây là giai đoạn thịnh trị của triều đại

Lê Sơ; giai đoạn thứ ba từ 1504 đến 1527 là giai đoạn suy thoái của triều đại này

với những vua quỷ, vua lợn để đưa đến sự chấm dứt của triều đại.

Có thể nói, đây là bài viết trình bày tổng quan khá đầy đủ về triều đại Lê

Sơ, nhưng đó mới chỉ là những gợi mở về tiến trình lịch sử từ khi triều đại này hình

thành đến khi kết thúc. Thực tế, tác giả không đi sâu vào phân tích những chính

sách cụ thể nên chưa thể đưa đến một cách nhìn toàn diện về xã hội ở giai đoạn này.

Tiếp đến là bài viết "Tư tưởng đức trị và pháp trị trong Quốc triều hình

luật" của Vũ Thị Nga trong cuốn sách nói trên lại có cách tiếp cận khác khi nghiên

cứu về thời Lê Sơ. Trong bài viết này, tác giả đã chú trọng phân tích tư tưởng đức

trị của Nho gia được thể hiện trong bộ luật. Theo tác giả, Quốc triều hình luật đã thể

chế tư tưởng kính thiên, ái dân của Nho gia; quy định trách nhiệm cụ thể của từng

quan lại đối với vua, với đồng liêu và với dân; thể chế hóa lễ để cai trị, giáo hóa dân

chúng và trừng phạt nặng các hành vi xâm hại lễ nghi; đề ra những biện pháp trừng

phạt nặng để uốn nắn quan lại và dân chúng tuân thủ pháp luật [xem: 79].

15

Bài viết cải cách bộ máy nhà nước dưới triều Lê Thánh Tông và những giá

trị đương đại của tác giả Bùi Xuân Đức trong cuốn Quốc triều hình luật những giá

trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

Trong bài viết này tác giả đi vào tìm hiểu: bối cảnh cải cách bộ máy nhà nước;

những cải cách bộ máy nhà nước; từ đó rút ra những bài học và giá trị đương đại về

những cải cách bộ máy nhà nước của Lê Thánh Tông trên các phương diện: tư

tưởng cải cách đổi mới, tổ chức hợp lý bộ máy nhà nước, kiểm soát bộ máy quan

lại, chống tham nhũng. Tác giả đã đi đến kết luận: "Lê Thánh Tông đã có những cải

cách táo bạo, sửa lại những phép cũ của tổ tiên để phù hợp với điều kiện mới…hy

vọng lớp con cháu chúng ta sẽ noi gương nhà vua Lê Thánh Tông kiên quyết và

khôn khéo để đẩy mạnh công cuộc cải cách bộ máy nhà nước cho phù hợp với điều

kiện xứ ta" [125, tr. 71-73].

Bài viết của tác giả Uông Chu Lưu: Kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong

đạo trị quốc an dân của Lê Thánh Tông trong cuốn Quốc triều hình luật - những giá

trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, sau

phần giới thiệu về vua Lê Thánh Tông, khi bàn về tư tưởng trị nước tác giả viết:

Những gì Lê Thánh Tông để lại qua lịch sử cho thấy, trong rất

nhiều cách trị quốc, ông đã lựa chọn những phương cách phù hợp với

thời đại mà các thế hệ trước để lại, phát triển lên ở mức cao hơn và làm

thành cách riêng của mình, tạo nên một sự đặc sắc trong giai đoạn lịch sử

của vương triều Lê Sơ. Sử dụng hài hòa mối quan hệ giữa pháp trị và đức

trị là vấn đề nổi lên trong phép cai trị của ông [125, tr. 44].

Từ việc khẳng định phương cách trị nước của Lê Thánh Tông là pháp trị kết

hợp với đức trị, tác giả đã chỉ ra nét đặc sắc trong phương cách trị nước của vị vua

này trên bốn phương diện: xây dựng chế độ chuyên chế tập quyền mạnh lấy pháp

luật làm trọng; chủ trương kính thiên ái dân; coi lễ là biện pháp chủ yếu để cai trị

giáo hóa dân chúng thông qua quy tắc, chuẩn mực hóa; Quốc triều hình luật giải

quyết vấn đề "phép vua" thua "lệ làng" [125, tr. 47-51]. Tuy nhiên, do giới hạn

nghiên cứu của tác giả chỉ là Quốc triều hình luật mà bộ luật này ra đời dưới thời

Lê Thánh Tông nên những tư tưởng và vấn đề khác của thời Lê Sơ trước đó không

được tác giả đề cập đến.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!