Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Từ ngữ phật giáo trong văn học dân gian người việt
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG TRINH
TỪ NGỮ PHẬT GIÁO
TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ HỌC
Đà Nẵng – Năm 2019
Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. DƯƠNG QUỐC CƯỜNG
Phản biện 1:
PGS.TS. LÊ ĐỨC LUẬN
Phản biện 2:
PGS.TS. TRƯƠNG THỊ NHÀN
Luận văn được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp
Thạc sĩ Ngôn ngữ học họp tại trường Đại học sư phạm vào ngày
06 tháng 01 năm 2019.
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện trường Đại học sư phạm- ĐHĐN
Khoa Ngữ Văn trường Đại học sư phạm- ĐHĐN
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ trước đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu về tác
động của PG đến văn học. Tuy nhiên, các tác giả nghiên cứu chỉ dừng
lại ở việc liệt kê một số trường hợp từ ngữ có nguồn gốc PG hoặc tác
động của tư tưởng PG trong văn học dân gian, văn học viết mà chưa
có một công trình nghiên cứu sâu về ảnh hưởng của từ ngữ Phật giáo
(TNPG) đến văn học Việt Nam, cụ thể là văn học dân gian người Việt
(VHDGNV)
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu TNPG trong
VHDGNV. Thông qua việc phân tích, miêu tả những dẫn chứng để
làm rõ hệ thống TNPG thông dụng thường gặp trong các tác phẩm
VHDGNV.
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Điển hình là công trình Ca dao, tục ngữ Phật giáo Việt Nam
(2002) của nhóm tác giả Lệ Như, Thích Trung Hậu. Nhóm tác giả đã
dày công hệ thống, phân loại các tác phẩm ca dao, tục ngữ có sử
dụng các TNPG hoặc có ảnh hưởng của tư tưởng PG.
Cũng đi sâu nghiên cứu về TNPG, cụ thể là thơ thiền đời Lý
Trần, phải kể đến hai tác giả Đoàn Thị Thu Vân và Nguyễn Phạm
Hùng với hai công trình nghiên cứu: Thơ văn thế kỷ XI-XIV- tập 1-
Thơ thiền Lý Trần và Thơ thiền Việt Nam, những vấn đề lịch sử và tư
tưởng nghệ thuật. Hai công trình nghiên cứu này phân tích những
TNPG trong các tác phẩm thơ thiền tiêu biểu thời Lý Trần.
Nghiên cứu về TNPG trong tiếng Việt, tác giả Võ Minh Phát
đã bảo vệ thành công Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học năm 2016 với đề
tài: “Đặc điểm ngôn ngữ của từ ngữ xưng hô trong Phật giáo Việt
Nam”.
2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
TNPG trong văn học dân gian người Việt (gồm từ vựng PG
xuất hiện trong các tác phẩm văn học dân gian) là đối tượng nghiên
cứu của luận văn.
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi khảo sát hệ thống TNPG trong
các tác phẩm văn học dân gian phổ biến thuộc các thể loại ca dao, tục
ngữ, truyện thơ tiếng Việt. Từ đó, thống kê ra những TNPG hay sử
dụng trong văn chương và đời sống xã hội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trước hết, chúng tôi dùng phương pháp điều tra khảo sát và
phương pháp thống kê phân loại để thu thập từ ngữ có nguồn gốc PG
được sử dụng trong tác phẩm văn học dân gian người Việt.
Trên cơ sở nguồn dữ liệu đã khảo sát, từ đó áp dụng phương
pháp phân tích, miêu tả để tìm ra những đặc điểm của từ ngữ ấy khi
chuyển từ phạm vi PG sang phạm vi văn học và đời sống. Bên cạnh
đó, sử dụng thêm phương pháp so sánh, đối chiếu để thấy sự khác biệt
của ý nghĩa TNPG trong kinh tạng và trong văn học lẫn đời thường.
6. Đóng góp của nghiên cứu
Về lý luận:
• Làm sáng tỏ về TNPG với phạm vi hành chức trong văn học
dân gian người Việt và những giá trị biểu đạt, nhân sinh của nó trong
tác phẩm văn học quần chúng.
• Góp phần khẳng định TNPG là một hiện tượng xã hội với
những giá trị và ảnh hưởng nhất định đến giao tiếp đời thường lẫn
sáng tác văn chương.
Về thực tiễn:
- Góp phần thiết thực trong việc nghiên cứu về ngôn ngữ, văn
hóa, đạo đức, lối sống của dân tộc Việt.
- Là tài liệu tham khảo hữu ích cho cho giáo viên, học sinh,
sinh viên trong giảng dạy, học tập nghiên cứu sử dụng các TNPG
3
trong văn học dân gian người Việt.
7. Cấu trúc của luận văn
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
- Chương 2: Kháo sát từ ngữ Phật giáo trong văn học dân gian
người Việt
- Chương 3: Giá trị của từ ngữ Phật giáo trong văn học dân
gian người Việt
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Từ, ngữ tiếng Việt
1.1.1. Khái niệm từ, ngữ
1.1.2. Các lớp từ vựng tiếng Việt
a. Các lớp từ vựng tiếng Việt xét theo nguồn gốc
b. Các lớp từ vựng tiếng Việt xét theo đối tượng sử dụng:
c.Từ ngữ tiếng Việt xét theo thời gian sử dụng:
1.1.3. Biệt ngữ tôn giáo
Biệt ngữ tôn giáo là những từ hoặc ngữ biểu thị những sự vật,
hiện tượng thuộc phạm vi sinh hoạt của một tôn giáo.
1.2. Phật giáo tại Việt Nam
1.2.1. Sơ lược về lịch sử Phật giáo tại Việt Nam
1.2.2. Từ ngữ Phật giáo
Theo khảo sát trong Từ điển Phật học Huệ Quang, có đến
23.000 từ ngữ Phật giáo tiếng Việt bao gồm: các thuật ngữ phật giáo,
tên người, tên tác phẩm, tên các tông phái, các nghi thức, các tác
phẩm văn học, nghệ thuật Phật giáo, từ chuyên môn Phật học, các từ
liên quan đến lịch sử Phật giáo nói chung. Các từ ngữ này được sử
dụng trong phạm vi nhà chùa như là từ chuyên môn Phật học và hòa
lẫn đời sống hằng ngày của người Việt thông qua đời sống sinh hoạt
văn hóa, tinh thần.
4
1.3. Khái quát về văn học dân gian người Việt
1.3.1. Khái niệm chung về văn học dân gian
Bàn về khái niệm Văn học dân gian, Lê Đức Luận cho rằng “Văn
học dân gian là phần lời của văn nghệ dân gian, một loại hình nghệ thuật
mang tính nguyên hợp, trong đó, nghệ thuật ngôn từ đóng vai trò quan
trọng và luôn luôn gắn liền với các thành tố nghệ thuật khác của nghệ
thuật biểu diễn dân gian. Mặt khác, khi dòng văn học viết ra đời, nó là
dòng văn học không chính thống luôn song hành với văn học viết, làm
ngôn liệu cho hoạt động diễn xướng dân gian” [27;tr.20]
Bên cạnh đó, các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian người
Việt là:
- Tính truyền miệng và tính diễn xướng:
- Văn học dân gian là kết quả của những quá trình sáng tác
tập thể
- Văn học dân gian mang tính biến đổi.
1.3.2. Các bộ phận của văn học dân gian người Việt
Văn học dân gian ra đời trong lao động, là một bức tranh toàn
diện về đời sống sản xuất và sinh hoạt của người Việt. Bên cạnh đó,
còn phản ánh một thế giới đời sống tinh thần phong phú, nhân văn và
không gian văn hóa, phong tục độc đáo. Dựa vào phương thức trình
bày, có thể chia văn học dân gian người Việt thành những bộ phận:
Các thể loại theo phương thức kể: Thần thoại, truyền thuyết,
truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười và giai thoại.
Các thể loại theo phương thức hát nói: Câu đố, tục ngữ, ca dao,
dân ca, vè, đồng dao.
Các thể loại diễn xướng tổng hợp: Chèo sân đình, tuồng.
CHƯƠNG 2
TỪ NGỮ PHẬT GIÁO TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN
NGƯỜI VIỆT
5
2.1. Từ ngữ Phật giáo trong văn học dân gian người Việt được
phân chia theo đặc điểm cấu tạo
2.1.1. Từ
2.1.1.1. Từ đơn
Khảo sát từ đơn Phật giáo trong hệ thống các câu ca dao, tục
ngữ người Việt, chúng tôi thu được luận văn thu được 34 từ đơn
thường gặp, thuộc hệ thống các danh từ, động từ, tính từ.
Bên cạnh việc xuất hiện tại các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ
người Việt. Từ đơn PG còn xuất hiện ở rất nhiều tác phẩm văn xuôi
VHDGNV. Thống kê trong 23 tác phẩm văn xuôi có hàm chứa tư
tưởng PG hoặc có xuất hiện hình ảnh của nhân vật Phật, Bụt, luận
văn thống kê một số từ đơn PG thường gặp.
Hệ thống 62 từ đơn xuất hiện trong 23 tác phẩm văn xuôi
thuộc văn học dân gian người Việt cũng phong phú, đa dạng từ các
loại danh từ, động từ, tính từ và cũng là những từ ngữ thân thuộc
được sử dụng trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của người Việt.
Bảng 2.2. Thống kê số lượng từ đơn phật giáo trong 23 tác phẩm văn
xuôi thuộc văn học dân gian người Việt
TT Từ
đơn
Số
tác phẩm sử
dụng
Tên tác phẩm
1 ác 1 Sự tích sông Nhà Bè (Thủ Huồng)
2 am 1 Thiền sư Minh Không
3 bay 1 Ả chức chàng ngưu
4 biến 1 Thiền sư Minh Không
5 Bụt 2
Cây tre trăm đốt
Tấm cám
6 cầu 3
Quan âm Thị Kính
Quan âm Nam Hải
Ả chức chàng ngưu
7 chay 1 Quan âm Thị Kính
8 chí 1 Sự tích Phật Bà Quan âm Hành Sơn
9 chùa 3
Sự tích sông Nhà Bè (Thủ Huồng)
Thiền sư Minh Không
Truyện Dương Không lộ và Nguyễn Giác Hải
6
TT Từ
đơn
Số
tác phẩm sử
dụng
Tên tác phẩm
10 cúng 2
Sự tích sông Nhà Bè (Thủ Huồng)
Sự tích Hồ Ba Bể
11 đấng 1 Quan âm Nam Hải
12 đạo 3
Man Nương
Sự tích đầm Nhất dạ và bãi tự nhiên
Sự tích đầm Mực
13 đạo sĩ 1 Sự tích đầm Nhất dạ và bãi tự nhiên
14 điềm 1 Thạch Sùng
15 duyên 1 Duyên nợ tái sinh
16 hệ 1 Quan âm Thị Kính
17 hiện 2
Sự tích đầm Mực
Tấm cám
18 hiếu 2
Sự tích Phật Bà Quan âm Hành Sơn
Quan âm Thị Kính
19 hóa 3
Quan âm Nam Hải
Sự tích cây nêu ngày Tết
Sự tích công chúa Liễu Hạnh
20 hoàn 1 Quan âm Nam Hải
21 hồn 1 Sự tích cây nêu ngày Tết
22 huyệt 1 Duyên nợ tái sinh
23 khẩn 1 Ả chức chàng ngưu
24 khổ 1 Sự tích Phật Bà Quan âm Hành Sơn
25 kiếp 2
Quan âm Thị Kính
Duyên nợ tái sinh
26 kinh 4
Quan âm Thị Kính
Quan âm Nam Hải
Sự tích Phật Bà Quan âm Hành Sơn
Man Nương
27 lễ 2
Sự tích sông Nhà Bè (Thủ Huồng)
Thiền sư Minh Không
28 ma 1 Sự tích công chúa Liễu Hạnh
29 miếu 1 Sự tích đầm Mực
30 ngự 1 Quan âm Nam Hải
31 ngục 1 Sự tích sông Nhà Bè (Thủ Huồng)
32 nhập 1 Quan âm Nam Hải
33 oan 2
Sự tích sông Nhà Bè (Thủ Huồng)
Cái chết của bốn ông sư
34 ơn 1 Sự tích Phật Bà Quan âm Hành Sơn
35 Phật 9
Quan âm Thị Kính
Quan âm Nam Hải
Sự tích Phật Bà Quan âm Hành Sơn
7
TT Từ
đơn
Số
tác phẩm sử
dụng
Tên tác phẩm
Sự tích cây nêu ngày Tết
Man Nương
Thiền sư Minh Không
Truyện Dương Không lộ và Nguyễn Giác Hải
Sự tích Hồ Ba Bể
Cái chết của bốn ông sư
36 phép 2
Quan âm Nam Hải
Sự tích cây nêu ngày Tết
37 phúc 1 Sự tích sông Nhà Bè (Thủ Huồng)
38 quỷ 2
Sự tích sông Nhà Bè (Thủ Huồng)
Sự tích cây nêu ngày Tết
39 sãi 2
Sự tích sông Nhà Bè (Thủ Huồng)
Cái chết của bốn ông sư
40 sư 7
Sự tích sông Nhà Bè (Thủ Huồng)
Man Nương
Thiền sư Minh Không
Truyện Dương Không lộ và Nguyễn Giác Hải
Cái chết của bốn ông sư
Thiền sư Minh Không
Đẻ ra sư
41 tâm 1 Thiền sư Minh Không
42 tang 1 Quan âm Thị Kính
43 tăng 1 Man Nương
44 than 1 Sự tích đầm Nhất dạ và bãi tự nhiên
45 thần 3
Quan âm Nam Hải
Sự tích con hến
Sự tích Ngũ Hành Sơn
46 thánh 1 Thiền sư Minh Không
47 tháp 1 Thiền sư Minh Không
48 thầy 1 Cái chết của bốn ông sư
49 thiện 2
Sự tích Phật Bà Quan âm Hành Sơn
Sự tích Hồ Ba Bể
50 thờ 2
Thiền sư Minh Không
Sự tích đầm Mực
51 thuyết 1 Quan âm Nam Hải
52 tiên 2
Sự tích Phật Bà Quan âm Hành Sơn
Ả chức chàng ngưu
53 tiểu 1 Quan âm Thị Kính
54 trần 3
Sự tích sông Nhà Bè (Thủ Huồng)
Sự tích đầm Mực
Ả chức chàng ngưu
8
TT Từ
đơn
Số
tác phẩm sử
dụng
Tên tác phẩm
55 trì 1 Thiền sư Minh Không
56 trời 2
Mèo lại hoàn mèo
Ả chức chàng ngưu
57 trượng 1 Man Nương
58 tu 3
Quan âm Nam Hải
Sự tích Phật Bà Quan âm Hành Sơn
Truyện Dương Không lộ và Nguyễn Giác Hải
59 tử 1 Duyên nợ tái sinh
60 tụng 1 Man Nương
61 ước 1 Thiền sư Minh Không
62 xác 2
Sự tích đầm Mực
Cái chết của bốn ông sư
Hệ thống từ đơn được khảo sát trong ca dao, tục ngữ lẫn văn
xuôi VHDGNV đều mang tính phổ biến, tuy nhiên, chúng được chia
thành 2 nhóm. Một nhóm từ khi nhắc đến người ta có thể nhận ra ngay
từ ngữ PG, ví dụ như: Phật, tiểu, sư, sãi, kinh, duyên, phận, phúc…
Một nhóm từ khi nhắc đến khó nhận ra nguồn gốc Phật giáo, ví dụ
như: thiện, tâm, hồn, tham, oán, cầu.. vì nó đã hòa vào đời sống, văn
hóa, phong tục của người Việt. Tuy nhiên, cả hai nhóm từ đơn được
khảo sát hoàn toàn mang tính khẩu ngữ. Tác giả dân gian sử dụng đôi
khi không để diễn đạt mình là người Phật tử hay tính uyên bác mà xuất
phát từ sự phù hợp của từ đơn Phật giáo này với điều mà người truyền
tải, người nói muốn biểu hiện. Ranh giới giữa từ có nguồn gốc tôn giáo
và từ ngữ toàn dân hoàn toàn được xóa nhòa.
Một điểm hạn chế của việc sử dụng từ đơn Phật giáo trong
văn học dân gian đó là bản thể từ chỉ tương đương với một hình vị,
hàm lượng biểu đạt tính nhân văn, ý vị vẫn còn có nhiều hạn chế;
đồng thời chưa thoát rõ những hàm nghĩa mang điểm nhìn đạo
lý nhân quả, nhân duyên, luân hồi và nghiệp báo. Điều này, thể hiện
rõ nét hơn qua hệ thống từ ghép được sử dụng trong văn học dân gian
người Việt.
9
2.1.1.2. Từ ghép
- So với từ đơn PG trong các tác phẩm VHDGNV, hệ thống từ
ghép PG chiếm số lượng lớn và biểu đạt những hình ảnh, hàm nghĩa
trang trọng cùng triết lý nhân sinh quan sâu sắc. Tuy nhiên, các từ
ghép PG trong VHDGNV đa phần mang tính đa nghĩa, vừa mang
nghĩa Phật pháp, vừa mang nghĩa đời sống nên có những từ ngữ khó
truy nguyên được nguồn gốc và ý nghĩa.
Song song với đó, khảo sát trong 23 tác phẩm văn xuôi thuộc
VHDGNV, chúng tôi xét thấy có 158 từ ghép Phật giáo được sử dụng
Cũng như hệ thống từ đơn, các từ ghép PG được sử dụng trong
các tác phẩm văn xuôi VHDGNV vừa mang nghĩa phật pháp vừa có
ý nghĩa đời sống, theo đúng quy luật phát triển nghĩa, chuyển nghĩa.
Từ ghép PG có sự đóng góp đáng kể vào kho từ vựng tiếng Việt,
biểu đạt ý nghĩa cô đọng,súc tích, hình tượng, hàm nghĩa trang trọng, giúp
tác giả dân gian dễ dàng thể hiện triết lý nhân sinh hướng về đạo Phật
nhưng vẫn mang màu sắc văn hóa dân gian của người Việt khá rõ ràng.
Hệ thống từ ghép được sử dụng đương nhiên trong đời sống
nhà Phật, trong văn chương nhưng lại có một số lượng đáng kể được
sử dụng trong đời sống văn hóa, sinh hoạt.
Như vậy, hệ thống từ đơn, cũng như từ ghép PG biểu thị cách
thức tu hành hoặc đối nhân xử thế theo đạo lý nhà Phật đã được đưa
vào trong ca dao, tục ngữ, văn xuôi thuộc văn học dân gian người
Việt một cách nhuần nhuyễn, rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với đông đảo
quần chúng nhân dân lao động.Bên cạnh đó, những vần điệu du
dương cùng ngôn từ trong sáng của thơ ca dân gian cũng khiến cho
những bài học đạo lý mang hơi hướng giáo lý nhà Phật được trở nên
dễ tiếp nhận với đại đa số người tiếp cận.
2.1.2. Ngữ
2.1.2.1. Ngữ định danh
Khảo sát trong một số tác phẩm văn xuôi thuộc văn học dân
10
gian người Việt, thấy xuất hiện nhiều ngữ định danh như sau:
Bảng 2.3. Thống kê ngữ định danh trong các tác phẩm văn xuôi
thuộc văn học dân gian người Việt
Stt Ngữ định danh Xuất hiện trong tác phẩm
1 Thần hoàng bổn cảnh Quan âm Nam Hải
2 Thiền sư Không Lộ Truyện Không Lộ
3 Thiện tài đồng tử Quan âm Nam Hải
4 Thập diện Minh vương Quan âm Nam Hải
5 Phật đài Quan âm Nam Hải
6 Phật bà Sự tích công chúa Liễu Hạnh
7 Phật mẫu Man Nương
8 Nam Hải Phổ đà sơn Quan âm Nam Hải
9 Quân âm Diệu Thiện Sự tích Phật Bà Quan âm Hành sơn
10 Quan âm Nam Hải Quan âm Nam Hải
11 Quan âm Như Lai Quan âm Nam Hải
12 Nhập thất tam thiền Quan âm Nam Hải
13 Phật đạo Man Nương
14 Phật bà Quan âm Sự tích công chúa Liễu Hạnh
15 Phật bà Sự tích công chúa Liễu Hạnh
16 Ma chay Quan âm Thị Kính
17 Nam hải Phổ đà sơn Quan âm Nam Hải
18 Pháp điện Man nương
19 Pháp Lôi Man nương
20 Kinh Gia la ni môn Truyện Dương Không Lộ và Nguyễn Gíac Hải
21 Kinh Lăng Nghiêm Sự tích Phật Bà Quan âm Hành sơn
22 Kinh Luận Sự tích Phật Bà Quan âm Hành sơn
23 Đức Phật Thiên tôn Quan âm Thị Kính
24 Đức Quan âm Nam Hải Sự tích Phật Bà Quan âm Hành sơn
25 Đầu trâu mặt ngựa Sự tích Phật Bà Quan âm Hành sơn
26 Cứu độ chúng sinh Quan âm Nam Hải
Tương tự việc khảo sát từ hệ thống văn xuôi, trong ca dao, tục
ngữ Tiếng Việt cũng xuất hiện nhiều ngữ định danh là tên gọi của các vị
Phật, Bồ tát, các hình ảnh tưởng tượng về cõi tâm linh nơi Phật giới.
Như vậy, ngữ định danh trong từ ngữ PG thường mang sắc thái
nghĩa trang trọng, tôn nghiêm khi gắn liền với tên gọi của các vị
Tiên, Phật; mang sắc thái biểu cảm khi gắn liền với các hình ảnh biểu
trưng, biểu tượng về một cõi tâm linh mang tính tưởng tượng.
Xét về mặt nguồn gốc, ngữ định danh có nguồn gốc PG trong
11
VHDGNV đa phần có nguồn gốc Hán Việt khi dùng làm tên gọi của
các đấng tối cao hay nói về các cõi siêu sinh, vô hình.Có thể khẳng
định, trong từ ngữ Phật giáo nói chung và TNPG trong VHDGNV
nói riêng thì từ Hán Việt đóng một vai trò quan trọng trong định danh
đối tượng.
Xét về mặt ngữ nghĩa, hệ thống ngữ định danh trong từ ngữ
PG qua những khảo sát trong đề tài của luận văn, mang tính đơn
nghĩa vì chỉ đơn thuần biểu đạt tên gọi, không mang tính đa nghĩa
hoặc nhiều cách hiểu như hệ thống từ ghép.
2.1.2.2. Thành ngữ Phật giáo
Trong kho tàng VHDGNV, có xuất hiện hẳn một hệ thống thành
ngữ Phật giáo, diễn đạt những quan điểm, giáo lý nhà Phật được thấm
nhuần vào hệ tư tưởng, văn hóa ứng xử của người Việt xưa nay. Những
thành ngữ PG này hoàn toàn được sử dụng phổ biến trong đời sống hằng
ngày như một phương tiện giao tiếp đời thường. Qua thống kê, người
viết thu nhận được một số thành ngữ PG như sau:
Nhóm thành ngữ thiêng về biểu đạt các hình ảnh liên quan đến
nhà Chùa: Bụt nhà không thiêng, Bụt chùa không thiêng, Bụt nhiều
oản ít, Tiền Phật hậu Phật,Thập nhị nhân duyên, Phúc chủ lộc thầy,
Chùa đất Phật vàng..
Nhóm thành ngữ thiêng về biểu đạt giáo lý nhà Phật: Khẩu
Phật tâm xà, Ác giả ác báo, Dĩ ân báo ân, Của người phúc ta, Dĩ đức
báo oán, Đức năng thắng số, Họa vô đơn chí, Họa phúc khôn lường,
Thiện sanh phước chung, Ác giả ác báo, Thiện giả thiện tai, Có phúc,
có phận, Ở ác gặp ác, Thưởng thiện phạt ác..
Nhóm thành ngữ mượn hình ảnh Phật giáo để châm biếm, đả
kích các sự kiện trái với luân thường, đạo lý trong cuộc sống: Của
bụt trả bụt, Chùa rách Phật vàng, Khẩu Phật tâm xà, Khẩu xà tâm
Phật, Hỏi sư mượn lược, Tham thì thâm,Vu oan giá họa, Hại thân
thân hại, Sinh sự, sự sinh, Gieo gió gặp bão, Của thiên trả địa, Oan
12
oan tương bá.
Những thành ngữ nói trên khá phổ biến và được cộng đồng
chấp nhận sử dụng cả vào ngôn ngữ đời thường. Đó cũng là một
trong những điểu khiến cho vốn từ ngữ của tiếng Việt ngày càng trở
nên dồi dào, phong phú. Hệ thống từ tạo thành các thành ngữ Phật
giáo có đa dạng nguồn gốc từ thuần Việt đến phi thuần Việt.
2.2. Từ ngữ Phật giáo trong văn học dân gian người Việt được
phân chia theo nguồn gốc.
2.2.1. Nguồn gốc thuần Việt
Từ thuần Việt là từ không phải tiếp nhận từ ngôn ngữ khác mà
là vốn có của tiếng Việt. Theo Nguyễn Thiện Giáp, một giải pháp
mang tính tình thế trong việc tìm ra từ thuần Việt đó là “Ngoài những
từ có thể xác định chắc chắn là tiếng Việt tiếp nhận của tiếng Hán và
ngôn ngữ Ấn-Âu, tất cả những từ còn lại được coi là từ thuần Việt”.
Qua khảo sát từ các tác phẩm cụ thể, luận văn nhận thấy, đa
phần các TNPG là từ đơn xuất hiện trong các tác phẩm VHDGNV
đều có nguồn gốc thuần Việt.
Căn cứ vào bảng thống kê ở trên, có thể kể ra các từ đơn Phật
giáo có nguồn gốc thuần Việt trong các tác phẩm văn học dân gian
người Việt, với đa dạng các thể loại danh từ, động từ, tính từ như:
lộc, sãi, ma, phúc, oan,nợ, bùa, hương, rằm, chuông, tu, tiên,
nghĩa, phúc, thiền, số, phận, chay, sư,kinh, cầu, thỉnh, tu, khấn, oán,
thờ, tụng, trần, tham, hiếu, ác, ma, bay, biến, cầu, chay, chí, chùa,
cúng, đấng, đạo, sĩ, khấn, khổ, kiếp, kinh, lễ, ngục, oan, thiện, thờ,
nhập, tiểu, trì, trần, trời, tu, tử, tụng..
Các từ có nguồn gốc thuần Việt đa phần là hệ thống từ đơn và
có tính thu hẹp nghĩa khá rõ nét so với các từ ghép có nguồn gốc Hán
Việt, đồng thời là giá trị cốt lõi của tiếng Việt và giữ vai trò điều
khiển, chi phối sự hoạt động của mọi lớp từ khác. Từ thuần Việt xuất
hiện khá lâu bởi nó biểu thị các sự vật, hiện tượng ở các khía cạnh cơ
13
bản nhất và được người Việt sử dụng thường ngày trong đời sống
giao tiếp, không quá nặng nề về yếu tố trang trọng, cầu kỳ.
2.2.2. Nguồn gốc Hán Việt
Hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới đều có một số lượng “từ
mượn” tương đối, phù hợp với đặc điểm giao lưu, tiếp biến văn hóa
của dân tộc đó. Là quốc gia có hàng ngàn năm Bắc thuộc, tiếp xúc
với văn hóa Hán từ lâu đời, ngôn ngữ tiếng Việt nói chung và TNPG
trong VHDGNV nói riêng có một sự ảnh hưởng không nhỏ ngôn ngữ
Hán gắn liền với sự ra đời của những từ ngữ có nguồn gốc Hán Việt.
Từ Hán Việt là những từ gốc Hán đọc theo cách đọc Hán Việt
(cụ thể là phản ánh dạng ngữ âm của chữ Hán thời nhà
Đường).Không giống từ thuần Việt, từ ngữ Hán Việt đa phần mang ý
nghĩa trừu tượng và được dùng để chỉ các khái niệm thuộc các lĩnh
vực triết học, lịch sử, văn học một cách cụ thể, thường phù hợp với
phong cách sách vở, với không gian giao tiếp trang trọng.
Từ Hán Việt chiếm số lượng khá lớn trong TNPG bởi hệ thống
kinh kệ Phật giáo, đa phần sử dụng các yếu tố Hán Việt để lưu giữ lại
những lời dạy của Đức Phật nhằm tạo sắc thái vừa trang trọng, vừa
tao nhã. Bên cạnh đó, từ Hán Việt còn có vai trò tất yếu trong việc
định danh đối tượng, cụ thể ở đây là tên gọi của các vị Chư Phật, tên
gọi của hệ thống kinh kệ, các cõi của nhà Phật trong đời sống lẫn văn
hóa, văn học dân gian người Việt.
Khảo sát trong văn học dân gian người Việt, lấy những kết quả từ
các bảng thống kê 2.1, 2.2 ; luận văn có thể phân loại các TNPG có
nguồn gốc Hán Việt trong VHDGNV thành các nhóm cụ thể như sau:
Nhóm từ chỉ tên các vị Tiên, Phật, ma quỷ, các thế lực siêu
nhiên: Bồ tát, chư Phật, Đức Phật, Ngọc đế,Ngọc Hoàng, Pháp
điện,Pháp Lôi,Pháp Vân,Pháp Vũ,Phật bà,Phật đài,Phật đạo,Phật
mẫu,Phật Quan âm, tiên nhân, thổ địa, quỷ sứ..
Đây là nhóm các từ chỉ về tên gọi của các vị tiên, Phật, Bồ Tát.