Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Từ ngữ nghề Gốm Thổ Hà
PREMIUM
Số trang
122
Kích thước
1.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1159

Từ ngữ nghề Gốm Thổ Hà

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

----------------------

NGUYỄN VĂN AN

TỪ NGỮ NGHỀ GỐM THỔ HÀ

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC

Mã số: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Lê Văn Trƣờng

THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu

của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong

luận văn là trung thực và chưa từng có ai công bố trong

bất kì một công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Văn An

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

- Từ ngữ nghề nghiệp là một tiểu hệ thống nằm trong hệ thống từ

vựng tiếng Việt. Nó là một bộ phận quan trọng, bổ sung, làm phong phú vốn

từ vựng của từ ngữ toàn dân. Từ ngữ nghề nghiệp có một đặc trƣng cơ bản là

sự xuất hiện của nó gắn với sự ra đời của một ngành nghề nhất định. Nghề

gốm là một trong những nghề xuất hiện sớm nhất của xã hội loài ngƣời, vì

vậy nó là một trong những hiện vật lƣu giữ rõ nét nhất về tiến trình phát triển

lịch sử xã hội loài ngƣời. Và hiển nhiên, từ ngữ nghề gốm cũng mang trong

nó nét văn hóa, tƣ duy của con ngƣời sáng tạo ra nó. Theo Dư địa chí Hà Bắc

nghề gốm Thổ Hà đƣợc hình thành từ thế kỷ 15, nơi đây đã sớm trở thành một

trong ba trung tâm sản xuất gốm quan trọng nhất của xứ Bắc (Bát Tràng; Phù

Lãng và Thổ Hà). Do xuất hiện từ khá sớm nên hệ thống từ ngữ nghề gốm

Thổ Hà cũng mang trong mình một bể trầm tích về tƣ duy, văn hóa dân tộc

trong cách gọi tên các công đoạn, các hoạt động… cũng nhƣ tên gọi các sản

phẩm gốm. Trong mỗi gia đình ngƣời Việt, chúng ta không khó khăn gì để

tìm một sản phẩm gốm trong đồ dùng sinh hoạt hàng ngày. Nó gắn bó với ta

nhƣ máu thịt. Khi cất tiếng khóc chào đời, cuống nhau cho vào cái nồi đất

chôn ngoài cổng ngõ, rồi tắm lọt lòng trong cái chậu sành da lƣơn, từ cái bát

đựng cơm, cái điếu bát hút thuốc lào, cái niêu kho cá, cái vại muối cà, cái

chum kê bên gốc cau hứng nƣớc mƣa… Rồi đến khi nhắm mắt nằm xuống,

đến lúc sang cát ngƣời lại đƣợc nằm trong cái tiểu sành. Đất với ngƣời, ngƣời

với đất gắn bó thủy chung nhƣ thế. Gốm với ngƣời Việt ta là thế, nhƣng có

khi nào ta tự hỏi từ ngữ nghề gốm nhƣ non lửa, già lửa, nặng lửa, yếu xương,

cứng xương, ang, âu, chĩnh, chóe v.v…ngoài những đặc điểm về cấu trúc ngữ

nghĩa, phƣơng thức định danh, nguồn gốc… nó còn ẩn chứa những giá trị gì

khác, nhƣ giá trị văn hóa, dân tộc…?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

- Về từ nghề nghiệp nói chung, đã có nhiều nhà nghiên cứu đã tìm

hiểu, nhƣng hầu hết mới chỉ dừng lại khai thác tầng mặt của từ nghề nghiệp,

tức là chủ yếu đi sƣu tầm, thống kê về số lƣợng, về phƣơng thức cấu tạo, chức

năng sử dụng… để phân biệt nó với các nhóm từ ngữ khác nhƣ thuật ngữ

khoa học, tiếng lóng, từ địa phƣơng… mà chƣa đi tìm hiểu tầng ngữ nghĩa ẩn

sâu của các từ nghề nghiệp về nguồn gốc ra đời, những đặc trƣng văn hóa dân

tộc và tƣ duy trong việc định danh của từ nghề nghiệp. Vì vậy, sẽ không thấy

đƣợc sự đóng góp của hệ thống từ nghề nghiệp đối với hệ thống từ toàn dân

về mặt văn hóa, dân tộc và tƣ duy. Và cụ thể đối với từ ngữ nghề gốm thì sự

quan tâm về các khía cạnh trên lại càng mờ nhạt.

- Một thực tế nữa khiến ngƣời viết dành sự quan tâm tới từ ngữ nghề

gốm Thổ Hà là bởi, đây là một nghề truyền thống của quê hƣơng đã có cả một

thời gian dài phát triển thịnh vƣợng. Nhƣng từ sau cuối thập kỷ 70 của thế kỷ

trƣớc, do sự không thích ứng với cơ chế thị trƣờng, nghề gốm đã bị mai một

và hiện nay gần nhƣ cả làng Thổ Hà đã chuyển qua sinh sống bằng nghề khác,

chỉ còn duy nhất một hợp tác xã với quy mô sản xuất nhỏ. Các nghệ nhân có

kinh nghiệm nay tuổi đã cao, lớp thanh niên trẻ không còn mặn mà với nghề

này nữa. Có thể nói nghề gốm Thổ Hà đang đứng trƣớc nguy cơ bị xóa sổ trên

bản đồ các làng nghề gốm của Việt Nam. Và, nếu nghề gốm ở đây không còn

tồn tại thì toàn bộ vốn từ ngữ của nghề gốm ở đây tất yếu cũng sẽ mai một.

Nhƣ vậy, cũng có nghĩa là một phần văn hóa sẽ dần biến mất đối với những

ngƣời dân vốn lâu nay, bao đời, vẫn trao đổi lời ăn tiếng nói, tâm tƣ tình cảm

thông qua những từ ngữ của nghề gốm. Những câu ví von làm nên bản sắc

văn hóa của ngƣời Thổ Hà, xứ Kinh Bắc xƣa: "thon thon hình vại, thoai thoải

hình chum" hay "thứ nhất là cỗ đám ma, thứ nhì đuổi lửa, thứ ba chồng lò"…

sẽ ít dần những ngƣời hiểu đƣợc ý nghĩa của nó.

- Qua luận văn này chúng tôi muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào

việc lƣu giữ, bảo tồn vốn từ ngữ của nghề cổ truyền và có một cách nhìn sâu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

hơn về từ ngữ nghề nghiệp mà cụ thể là nghề gốm ở Thổ Hà dƣới góc độ nhƣ

một thành tố văn hóa.

2. Lịch sử vấn đề

Từ ngữ nghề gốm nói riêng và từ nghề nghiệp nói chung đã có khá

nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả tiêu biểu nhƣ năm 1997 trong

cuốn giáo trình “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” của nhóm các nhà khoa

học Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến đã đƣa ra khái niệm

khá hoàn chỉnh về từ nghề nghiệp; Năm 2003 tại Hội nghị khoa học của Viện

Ngôn ngữ học, tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga có đề cập tới một số đặc điểm

của từ ngữ nghề làm muối Nghệ Tĩnh trong bài “Từ ngữ nghề làm muối tại

Nghệ Tĩnh”; Cũng với tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga, trong Hội nghị khoa

học của Viện Ngôn ngữ đã đề cập đến vấn đề “Cơ sở dữ liệu từ nghề nghiệp

chƣơng trình quản lý, ứng dụng và phát triển”, đƣợc đăng trên “Những vấn đề

ngôn ngữ học - Kỷ yếu Hội nghị khoa học 2005” đã đƣa ra vấn đề ứng dụng

công nghệ thông tin vào việc quản lý, lƣu giữ từ nghề nghiệp; Năm 2003

trong hội nghị khoa học của Viện Ngôn ngữ, tác giả Phạm Tất Thắng có bài

“Từ nghề nghiệp và cách nhận diện chúng”, đƣợc đăng trên “Những vấn đề

ngôn ngữ học - Kỷ yếu Hội nghị khoa học 2003”, tác giả đã đƣa ra những dấu

hiệu đặc trƣng để có thể nhận biết từ nghề nghiệp với các loại từ ngữ khác

trong ngôn ngữ tiếng Việt; Năm 2002, tác giả Nguyễn Văn Khang có đề tài

khoa học cấp viện, Viện Ngôn ngữ học với nhan đề “Từ ngữ nghề nghiệp

gốm sứ Bát Tràng” đã có cái nhìn khá đầy đủ toàn diện về từ nghề nghiệp

gốm sứ Bát Tràng nói riêng và từ nghề nghiệp nói chung; Cũng với nội dung

từ ngữ nghề gốm, năm 2002, tác giả Lê Văn Trƣờng trong Hội nghị khoa học,

Viện Ngôn ngữ học, đã có công trình khảo sát “Từ nghề nghiệp nghề gốm

Quế”, đăng trên “Những vấn đề ngôn ngữ học - Kỷ yếu Hội nghị khoa học”.

Công trình này tiến hành thu thập, phân tích sơ lƣợc về từ ngữ nghề gốm Quế

nói riêng và từ nghề nghiệp nói chung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

Mặc dù có nhiều tác giả quan tâm, nhƣng hầu hết các đề tài nghiên

cứu chỉ dừng lại ở thống kê từ ngữ, phân tích cấu trúc ngữ nghĩa và một vài

nhận xét về nguồn gốc, đặc điểm chức năng, giá trị sử dụng của hệ thống từ

nghề nghiệp, mà chƣa có công trình nào đi vào nghiên cứu khám phá yếu tố

văn hóa dân tộc của từ ngữ nghề nghiệp nói chung hay từ ngữ nghề gốm nói

riêng. Nhƣng, tất cả những tác giả và các công trình khoa học trên có vai trò

rất quan trọng trong việc gợi mở ý tƣởng, làm tài liệu tham khảo quý báu cho

chúng tôi khai thác và hoàn thành luận văn này.

3. Phạm vi nghiên cứu

Với đề tài Từ ngữ nghề gốm Thổ Hà, luận văn tiến hành nghiên cứu

toàn bộ hệ thống từ ngữ của nghề gốm ở Thổ Hà trên các bình diện nhƣ: đặc

điểm cấu trúc ngữ nghĩa; phƣơng thức định danh; sơ lƣợc về nguồn gốc;

trƣờng từ vựng ngữ nghĩa và đặc điểm văn hóa, dân tộc có trong từ ngữ nghề

gốm Thổ Hà

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

- Tìm hiểu đặc điểm cấu trúc ngữ nghĩa; phƣơng thức định danh; phát

hiện ít nhiều về nguồn gốc xuất xứ và tổng hợp, phân loại trƣờng nghĩa của từ

ngữ nghề gốm Thổ Hà.

- Thông qua nghiên cứu từ ngữ nghề gốm Thổ Hà để tìm và hiểu rõ

hơn văn hóa của ngƣời Việt, nhằm khẳng định từ ngữ nghề gốm là một thành

tố văn hóa dân tộc.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn này có những nhiệm vụ sau:

- Tập hợp lý luận về những khái niệm: từ, ngữ, nghĩa, từ nghề nghiệp,

từ toàn dân, tiếng lóng, thuật ngữ…có liên quan tới phần lý luận của luận văn.

Bên cạnh đó, luận văn còn có nhiệm vụ thu thập, sƣu tầm những quan niệm, ý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

6

kiến của các nhà khoa học quan tâm tới từ nghề nghiệp nói chung và từ ngữ

nghề gốm nói riêng. Ngoài ra còn tiến hành sƣu tầm, xử lí, hệ thống hóa toàn

bộ những từ ngữ sử dụng trong nghề gốm Thổ Hà, nhằm mục đích làm cơ sở

lý luận cho việc nghiên cứu luận văn này.

- Miêu tả đặc điểm cấu trúc ngữ nghĩa, phƣơng thức định danh, phân

loại theo nguồn gốc, theo trƣờng nghĩa toàn bộ từ ngữ nghề gốm Thổ Hà.

- Miêu tả đặc điểm văn hóa dân tộc của các từ ngữ nghề gốm Thổ Hà

- Tham khảo ý tƣởng khai thác từ ngữ nghề nghiệp gốm sứ Bát Tràng,

từ ngữ nghề nghiệp nghề gốm Quế, nhằm thấy đƣợc những điểm tƣơng đồng

và khác biệt của từ ngữ nghề gốm Thổ Hà với các từ ngữ nghề gốm khác ở

góc độ văn hóa dân tộc

5. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Tư liệu

- Nguồn tƣ liệu thành văn: Bao gồm những công trình nghiên cứu của

một số tác giả tiêu biểu nhƣ: Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của F. D

Saussure; Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê; Từ điển giải thích thuật ngữ

ngôn ngữ học của tập thể tác giả Nguyễn Nhƣ Ý, Hà Quang Năng, Đỗ Việt

Hùng, Đặng Ngọc Lệ; Từ ngữ nghề nghiệp gốm sứ Bát Tràng của Nguyễn

Văn Khang; Từ nghề nghiệp nghề gốm Quế của Lê Văn Trƣờng… Đƣợc sự

cho phép và tạo điều kiện thuận lợi, luận văn này đã tham khảo đƣợc khá nhiều

những tƣ liệu, cách tiếp cận với từ ngữ nghề gốm thông qua những công trình

nghiên cứu về từ ngữ nghề gốm của hai tác giả tiêu biểu là GS.TS. Nguyễn

Văn Khang và TS. Lê Văn Trƣờng. Bởi những công trình này có rất nhiều

điểm tƣơng đồng với luận văn này.

- Nguồn tƣ liệu điền dã:

+ Thông qua hoạt động điền dã thực tế tại làng gốm Thổ Hà, thu thập

tƣ liệu từ cuộc sống nơi đây.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

7

+ Các giai thoại truyền miệng của các nghệ nhân gốm của làng Thổ

Hà về lịch sử ông tổ nghề, những thời kỳ phát triển lúc thịnh, suy của làng

nghề; những hình ảnh về đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa tâm linh…

+ Tƣ liệu về toàn bộ những từ ngữ đƣợc ngƣời thợ gốm sử dụng trong

quá trình làm gốm tại làng gốm Thổ Hà

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để tiến hành nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng những phƣơng pháp sau:

- Phƣơng pháp nghiên cứu điền dã để thu thập, bổ sung những tƣ liệu

về từ ngữ nghề gốm Thổ Hà

- Phƣơng pháp miêu tả, bao gồm các thủ pháp: luận giải bên trong và

luận giải bên ngoài. Với các thủ pháp luận giải bên trong, chúng tôi tiến hành

việc phân loại, hệ thống hóa các đơn vị ngôn ngữ thành các nhóm, các loại

các tiểu hệ thống phân cấp, các hệ thống con; cùng với thủ pháp phân tích

thành tố trực tiếp; thủ pháp đối lập; thủ pháp phân tích trƣờng nghĩa… Cùng

với thủ pháp luận giải bên trong là các thủ pháp luận giải bên ngoài nhƣ: văn

hóa tộc ngƣời, thống kê…

- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu cũng đƣợc sử dụng trong luận văn để

thấy đƣợc những điểm tƣơng đồng và khác biệt trong trƣờng nghĩa và đặc điểm

văn hóa giữa từ ngữ nghề gốm Thổ Hà với từ nghề nghiệp gốm sứ Bát Tràng

- Ngoài các phƣơng pháp đặc trƣng của ngôn ngữ học nhƣ trên, luận

văn còn sử dụng một số phƣơng pháp của những ngành khoa học khác nhƣ:

phƣơng pháp mô hình hóa, diễn dịch, quy nạp…

6. Đóng góp của luận văn

6.1. Đóng góp về mặt lý luận

- Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu về từ ngữ nghề gốm Thổ Hà, bổ

sung thêm những cứ liệu về đặc điểm cấu tạo từ, ngữ của loại hình ngôn ngữ

đơn lập vào lý luận đại cƣơng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

8

- Luận văn bổ sung tƣ liệu vào việc nghiên cứu văn hóa của dân tộc

Việt và chỉ ra những đặc điểm văn hóa của ngƣời Việt thông qua từ ngữ nghề

gốm Thổ Hà nói riêng và từ ngữ nghề gốm của ngƣời Việt nói chung.

6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn

- Luận văn đƣa ra bảng từ ngữ nghề gốm Thổ Hà, nhằm lƣu giữ và có

thể làm cơ sở cho việc biên soạn sổ tay từ ngữ nghề gốm nói riêng và từ điển

từ nghề nghiệp nói chung.

- Thông qua những nội dung trong luận văn giúp tác giả cũng nhƣ

ngƣời dân làng gốm Thổ Hà đặc biệt là thế hệ trẻ có cái nhìn sâu sắc và toàn

diện hơn về nghề cổ truyền của ông cha để lại và những giá trị vật chất và tinh

thần mà những ngƣời thợ gốm đi trƣớc đã để lại nơi đây

- Hi vọng có thể phát hiện ra đôi điều về từ vựng lịch sử đƣợc lƣu giữ

trong từ ngữ nghề gốm Thổ Hà

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ

lục, luận văn có cấu trúc 3 chƣơng nhƣ sau:

- Chương 1: Cơ sở lý thuyết.

- Chương 2: Đặc điểm từ ngữ nghề gốm Thổ Hà.

- Chương 3: Việc sử dụng và những đặc điểm văn hóa của từ ngữ

nghề gốm Thổ Hà.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

9

Chương 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1. KHÁI NIỆM TỪ, NGỮ, NGHĨA

1.1.1. Từ

Nhƣ chúng ta đã biết, từ là đơn vị cơ bản của từ vựng (từ vựng, ngữ

âm và ngữ pháp là ba bộ phận cấu thành của một ngôn ngữ). Nó chính là đơn

vị dùng để gọi tên các sự vật, hiện tƣợng, khái niệm… của thực tế, mang

trong mình nó các thuộc tính tiêu biểu về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp của

một ngôn ngữ. Mặc dù vậy, cho đến nay, trong ngôn ngữ học lại có rất nhiều

định nghĩa về từ của các nhà nghiên cứu không giống nhau và cũng chƣa có

một định nghĩa nào thỏa mãn đƣợc các nhà nghiên cứu.

Có tình trạng trên là bởi, khi xem xét các từ, các nhà nghiên cứu đã

căn cứ trên các ngôn ngữ có những điểm rất khác nhau về loại hình, về quan

hệ cội nguồn… hoặc nhìn nhận dƣới những khía cạnh không nhƣ nhau, từ các

phƣơng diện khác nhau. Chính vì vậy mà trong hơn 6.000 ngôn ngữ khác

nhau trên thế giới, từ đƣợc hiện thực hóa bằng những hình thái rất đa dạng.

Đồng thời, có thể thấy cái đơn vị đƣợc hiểu là một tổ hợp âm thanh có ý

nghĩa, là sự thống nhất giữa hình thức và khái niệm đƣợc hàm chứa trong

hình thức ấy, là đơn vị tiềm năng để cấu tạo nên câu, là sự kiện tâm lý ngôn

ngữ học… ấy, vừa không dễ xác định, vừa thể hiện theo cách này, cách khác.

Tình trạng phức tạp của việc định nghĩa từ xuất phát từ chính bản thân từ

trong các ngôn ngữ. Viện sĩ L.V. Sherba đã viết: "Trong thực tế, từ là gì?

Thiết nghĩ rằng trong các ngôn ngữ khác nhau, từ sẽ khác nhau. Do đó không

có khái niệm từ nói chung" [Dẫn theo 3, tr. 12].

Cho đến nay, ngoài thực tế là việc xác định khái niệm "từ" chƣa đi đến

đƣợc sự nhất trí và có quá nhiều định nghĩa, lại có ý kiến cho rằng trong các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

10

ngôn ngữ chúng ta đã biết "không có khái niệm từ nói chung". Ngƣợc lại có ý

kiến cho rằng: "từ nói chung dầu sao vẫn tồn tại". Do vậy, một số nhà ngôn

ngữ học đã tránh, không đƣa ra lời định nghĩa chính thức hiển ngôn đối với

từ, hoặc họ chỉ đƣa ra những lời định nghĩa thích hợp với lĩnh vực mà mình

nghiên cứu, hay trình bày nội dung của khái niệm "từ" bằng những ngôn từ

chung chung, ƣớc định.

Mặc dù vậy, trên cơ sở những định nghĩa khác nhau về "từ", có thể

thấy từ có những đặc điểm đáng chú ý nhƣ sau:

- Là đơn vị có kích thƣớc nhất định về vật chất - âm thanh, là mặt biểu

thị, mặt hình thức, hay còn gọi là "từ ngữ âm - âm vị học";

- Là đơn vị có ý nghĩa biểu thị các sự vật, hiện tƣợng… nhất định, là

mặt đƣợc biểu thị, nội dung;

- Là đơn vị có cấu trúc nội tại tƣơng đối vững chắc, ổn định,có nghĩa

mà không thể phân tách thành đơn vị nhỏ hơn;

- Là đơn vị có chức năng khi hoạt động trong lời nói, là đơn vị để kiến

tạo nên câu…

Để có cơ sở thuận lợi cho việc nghiên cứu, xây dựng đề tài và khảo sát

tƣ liệu chúng tôi chọn khái niệm về từ của nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ

Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến trong Cơ sở ngôn ngữ học tiếng Việt: "Từ là

đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ, đƣợc vận dụng độc lập, tái hiện tự do

trong lời nói để xây dựng nên câu" [10, tr. 136].

Nhƣ vậy, từ có tính hoàn chỉnh cả về mặt ngữ âm và về mặt ngữ nghĩa

(dù là nghĩa từ vựng hay nghĩa ngữ pháp). Chính tính hoàn chỉnh về âm và

nghĩa nhƣ vậy đã khiến cho từ đƣợc sử dụng độc lập để tạo câu. Trong định

nghĩa vừa nêu, có hai đặc điểm nổi bật của từ cần chú ý:

- Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa: Từ có hình thức phổ biến là một

chiết đoạn âm thanh nhỏ nhất, đồng thời có nghĩa (dùng để gọi tên các sự vật

hiện tƣợng, các thuộc tính, các quan hệ… trong thực tiễn đời sống).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

11

- Từ được sử dụng độc lập, tự do trong lời nói dùng để tạo câu: Từ có

thể tách biệt khỏi các đơn vị khác (khác với các từ khác, cụm từ…) và đƣợc

dùng theo các quy tắc nhất định để tạo nên câu.

Những đặc điểm trên giúp phân biệt từ với các đơn vị khác: phân biệt

với yếu tố cấu tạo nên từ (đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, nhƣng không dùng trực

tiếp để đặt câu); phân biệt với cụm từ và câu (các đơn vị có nghĩa nhƣng

không nhỏ nhất)… Nhƣ vậy, rõ ràng từ là một thực thể, tồn tại hiển nhiên sẵn

có trong mỗi hệ thống ngôn ngữ với những đặc điểm hình thức, cấu trúc nội

tại và có thể có cách biểu thị nội dung (ý nghĩa) khác nhau, đƣợc ngƣời bản

ngữ tri giác (hiện thực về mặt tâm lý).

Ví dụ: từ của nghề gốm: chuốt, bàn xoay, đổ thành, dâng sấy, hàng mộc…

1.1.2. Ngữ

Trong một ngôn ngữ, thƣờng có những đơn vị từ vựng đƣợc coi là có

sẵn, có giá trị tƣơng đƣơng với từ, có nhiều đặc điểm giống với từ. Những

đơn vị từ vựng đó đƣợc gọi là cụm từ hoặc ngữ. Chính từ những đặc điểm

giống nhau giữa ngữ với từ mà có khái niệm từ ngữ. Ngữ có hai đặc trƣng cơ

bản là tính cố định và tính thành ngữ.

Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học thì ngữ là:

Kết hợp hai hoặc nhiều thực từ (không hoặc có cùng với các hƣ từ có

quan hệ với chúng gắn bó về ý nghĩa và ngữ pháp), diễn đạt một khái niệm

thống nhất, và là tên gọi phức tạp biểu thị các hiện tƣợng của thực tại khách

quan. Đó là một kết cấu cú pháp đƣợc tạo thành bởi hai hoặc nhiều thực từ

trên cơ sở liên hệ ngữ pháp phụ thuộc - theo quan hệ phù hợp, chi phối hay

liên hợp. Trong một số ngữ có từ đóng vai trò chủ yếu về mặt ngữ nghĩa và

ngữ pháp gọi là thành tố chính, các từ phụ thuộc vào thành tố chính gọi là

thành tố phụ. Thành tố chính của ngữ có thể là danh từ (tạo nên danh ngữ),

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!