Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống pháp ở nam bộ (1858 – 1918)
PREMIUM
Số trang
143
Kích thước
1.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1724

truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống pháp ở nam bộ (1858 – 1918)

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



VÕ PHÚC CHÂU

TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN

VỀ NHỮNG CUỘC KHỞI NGHĨA

CHỐNG PHÁP Ở NAM BỘ

(1858 – 1918)

Chuyên ngành VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 62 22 34 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TSKH BÙI MẠNH NHỊ

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2010

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong Luận án là trung thực.

Nếu nội dung Luận án có sự gian dối, sao chép thành quả nghiên cứu của

người khác, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tác giả Luận án

Võ Phúc Châu

QUY ƯỚC TRÌNH BÀY LUẬN ÁN

***

1. Cách trình bày trích dẫn ý kiến

Trong quá trình diễn giải vấn đề, khi cần nêu địa chỉ tham khảo hoặc dẫn lại một số nhận xét, ý kiến

của các nhà nghiên cứu, chúng tôi xin được trình bày theo quy ước:

 Phần trích dẫn ngắn: đặt trong dấu ngoặc kép, in nghiêng.

 Phần trích dẫn dài: tách thành đoạn riêng, lề trái lùi thêm 2 cm, không dùng ngoặc kép, cỡ chữ

nhỏ hơn, không in nghiêng.

 Phần ghi địa chỉ tham khảo: [205] (có nghĩa là xem tài liệu số 205 ở phần Tài liệu tham khảo).

 Phần ghi xuất xứ trích dẫn:

 [205,tr.135] (có nghĩa là dẫn chứng được trích từ tài liệu số 205 ở phần Tài liệu tham khảo,

trang 135).

 [PL1,3.1.2] (có nghĩa là dẫn chứng thuộc phần Phụ lục1, trong văn bản mang ký hiệu 3.1.2).

2. Cách chú thích

 Phần chú thích trực tiếp: viết liên tục, đặt trong dấu ngoặc đơn, có thể in chữ nghiêng. Ví dụ:

“nhu cầu gắn truyền thuyết với một chứng tích văn hóa nào đó (lăng mộ, địa danh, lễ hội…)”.

 Phần chú thích thêm: đặt cuối trang, mỗi chú thích đều có số thứ tự.

3. Quy ước viết tắt một số từ ngữ được dùng nhiều lần trong Luận án

STT Từ ngữ được dùng nhiều lần Viết tắt là

1 Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa

chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918) Truyền thuyết dân gian

2 Hệ thống truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi

nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918)

Hệ thống truyền thuyết

dân gian

3

Các nhóm truyền thuyết trong hệ thống truyền thuyết

dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam

Bộ (1858 – 1918)

Các nhóm truyền thuyết



MỞ ĐẦU

***

1. Lý do chọn đề tài - mục đích nghiên cứu

Kể từ khi người Việt đến khai khẩn, mở đất, mảnh đất Nam Bộ đã có hơn ba trăm năm

tồn tại và ngày càng phát triển. Trong hơn ba trăm năm ấy, con người bao phen chứng kiến

sự biến thiên lịch sử. Một trong những sự kiện oai hùng nhất của dân tộc ta nói chung, của

Nam Bộ nói riêng trong thời kỳ “khổ nhục nhưng vĩ đại” (Phạm Văn Đồng) là cuộc đối đầu

không cân sức với thực dân Pháp xâm lược. Cuộc kháng chiến này đã tạo nên hào khí rạng

ngời: Hào khí Đồng Nai.

Chỉ xét chặng đường ngắn ngủi, từ 1858 đến 1918, biết bao người con ưu tú của Nam

Bộ đã vùng lên chiến đấu và hy sinh lẫm liệt. Họ in dấu ấn đời mình vào thời gian và không

gian. Họ đã trở thành bất tử. Nhưng sự hy sinh của họ đã được nhìn nhận bởi các đánh giá,

xem xét của những thái độ tình cảm, cách nhìn khác nhau. Triều Nguyễn, thông qua lịch sử

chính thống, đã khe khắt và hẹp hòi khi đánh giá công trạng những anh hùng kháng Pháp.

Chỉ có nhân dân mới nhìn thấy hết tầm vóc và sự bất tử của những tấm gương vì dân mộ

nghĩa. Chỉ có nhân dân mới hiểu hết giá trị phải đánh đổi để còn được mảnh đất này.

Từ xa xưa, quần chúng nhân dân đã có cách nhìn riêng đối với con người và sự kiện

lịch sử. Họ biết ngợi ca, tôn vinh, tưởng nhớ các anh hùng, thông qua truyền thuyết dân gian.

Những truyền thuyết về anh hùng kháng Pháp, về những địa danh lịch sử đã hiện diện nơi

này nơi khác, tập trung hoặc rời rạc… trong các tư liệu sưu tầm văn học dân gian, trong tư

liệu khảo cứu, từ ký ức người dân… Chúng báo hiệu những mỏ quặng truyền thuyết dân gian

phong phú, phức tạp nhưng chưa được tập hợp, nghiên cứu đầy đủ.

Nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi hy vọng thấy được phần nào đặc điểm của thể loại

truyền thuyết trong thời cận đại. Bởi, truyền thuyết chỉ phổ biến, phát triển mạnh ở những

giai đoạn trước. Qua đó, trong chừng mực tư liệu cho phép, chúng tôi cũng mong muốn phát

hiện màu sắc địa phương, tính thống nhất và đa dạng của tác phẩm truyền thuyết dân gian

Nam Bộ so với truyền thuyết các vùng miền trong cả nước.

Nghiên cứu truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ,

luận án đồng thời sẽ giúp công việc giảng dạy lịch sử, văn học địa phương thêm chiều sâu và

hiệu quả.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Các công trình nghiên cứu, bài viết về thể loại truyền thuyết:

Đây là những bài viết, những tập sách được đăng tải rải rác, không liên tục, chưa thành

hệ thống chuyên đề. Tuy nhiên, mỗi bài viết đều xoáy vào một khía cạnh đặc trưng, mới mẻ

và phức tạp của truyền thuyết. Phần lớn tựa đề đã nêu rõ đối tượng và mục đích bài viết:

Nghiên cứu truyền thuyết, những vấn đề đặt ra [1], Suy nghĩ mới về bản chất thể loại truyền

thuyết [3], Bàn thêm về thể loại truyền thuyết [4], Thể loại truyền thuyết dưới mắt các nhà

nghiên cứu Folklore Nhật Bản và Trung Quốc [72], Quan điểm quần chúng trong truyền

thuyết dân gian Việt Nam [80], Truyền thuyết Việt Nam & vấn đề thể loại [84], Mối quan hệ

giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các anh hùng [106], Tìm hiểu kết cấu của dạng

truyền thuyết anh hùng [193], Truyền thuyết dân gian với tâm lý cộng đồng người Việt

[194], Tinh thần dân tộc qua các truyền thuyết lịch sử [220], Dạy “An Dương Vương và Mỵ

Châu - Trọng Thủy” từ góc nhìn truyền thuyết [188]... Ở các công trình này, các nhà nghiên

cứu thường chú ý khảo sát thể loại truyền thuyết qua mấy phương diện: dạng thức tác phẩm,

thời gian được phản ánh, mối quan hệ với cộng đồng, đặc điểm nội dung, đặc điểm nghệ

thuật, tâm lý tiếp nhận văn bản...

Nguồn tư liệu này giúp hình dung sự hình thành và vận động của thể loại truyền thuyết

trong đời sống văn học.

Cũng có lúc, một số nhà nghiên cứu không thừa nhận sự tồn tại của thể loại truyền

thuyết hoặc gọi chúng bằng những tên khác: huyền thoại, truyền văn, truyền ngoa, cổ tích

lịch sử... Nhưng giờ đây, trong nhiều nền văn học dân gian trên thế giới, truyền thuyết luôn

được xem là một thể loại lớn; có mối quan hệ đặc biệt với lịch sử, văn hóa, tôn giáo, tín

ngưỡng; có sự giao thoa với thần thoại, giai thoại, cổ tích... Ra đời sau thần thoại, trước cả cổ

tích, truyện thơ dân gian... nhưng truyền thuyết lại “trường thọ” hơn tất cả các thể loại này.

Đấy là sức sống kỳ lạ của thể loại truyền thuyết.

Nhìn chung, lý thuyết thể loại khá rõ. Tuy nhiên, khi vận dụng nguồn lý thuyết này để

sưu tầm và khảo sát truyền thuyết dân gian Nam Bộ (từ sau 1858), chúng tôi gặp nhiều khó

khăn. Cụ thể, quá ít công trình nghiên cứu giúp phân biệt rõ truyền thuyết và giai thoại,

truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử. Trong khi đó, do ra đời muộn (thời cận đại), nhiều

câu chuyện về nhân vật và sự kiện lịch sử tuy mang đặc điểm truyền thuyết nhưng thiếu đi

chất kỳ ảo, hoang đường hoặc vẫn chưa thoát hẳn màu sắc giai thoại. Một số truyền thuyết

dân gian lại nằm ngay trong tư liệu lịch sử, bằng cảm tính không dễ gì bóc tách ra được.

2.2. Một số tư liệu sưu tầm, biên khảo truyền thuyết dân gian, văn học dân gian, văn hóa dân

gian Nam Bộ

Nguồn tư liệu này bao gồm các công trình sưu tầm, biên khảo về tác phẩm truyền

thuyết; một số khai thác truyện dân gian nói chung; còn phần lớn là những công trình sưu

tầm, biên khảo văn học dân gian địa phương, văn hóa dân gian Nam Bộ, địa phương chí.

Để tiện khảo sát, chúng tôi phân nguồn tư liệu thành nhiều nhóm:

- Nhóm tư liệu về truyền thuyết, truyện dân gian (của cả nước)

- Nhóm tư liệu về văn học dân gian địa phương

- Nhóm tư liệu về văn hóa dân gian Nam Bộ, địa phương chí

Dưới đây xin giới thiệu tóm tắt đặc điểm một vài tư liệu:

2.2.1. Nhóm tư liệu về truyền thuyết, truyện dân gian:

* Truyện tích Việt Nam [88], Kho tàng truyện truyền kỳ Việt Nam [94], Truyền thuyết

Việt Nam [96], Truyền thuyết Việt Nam [108], Chuyện kể địa danh Việt Nam [98], Chuyện

xưa tích cũ [149], Việt Nam - thần thoại và truyền thuyết [153]: Các tập sách này tuyển chọn

những truyền thuyết đặc sắc, phổ biến của Việt Nam, nhưng mốc thời gian chỉ dừng lại trong

(hoặc trước) thời kỳ quốc gia phong kiến độc lập. Không truyền thuyết nào kể về cuộc những

cuộc khởi nghĩa buổi đầu chống Pháp ở Nam Bộ. Chỉ trong Truyện tích Việt Nam [88], có

truyện số 24 kể về Thiên Hộ Dương, truyện số 25 kể chung về những anh hùng chống Pháp.

Tuy nhiên, cả hai còn dừng ở mức độ ghi chép, sưu khảo. Các truyện không ghi xuất xứ.

* Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười [65]: Cả 42 truyện đều có bối cảnh không gian

là vùng Đồng Tháp Mười, thời gian trải dài từ “ngày xưa” cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Tập

sách lần lượt nhắc lại sự tích những địa danh; những câu chuyện hào hùng, cảm động về các

anh hùng hào kiệt đã sống, chiến đấu và ngã xuống trên quê hương Đồng Tháp. Các câu

chuyện được gọi chung là giai thoại dân gian, mặc dù một số nên gọi là truyền thuyết dân

gian. Vài truyện sưu tầm không ghi xuất xứ.

* Truyền thuyết Thiên Hộ Dương – Đốc Binh Kiều [66]: Tuyển tập giới thiệu những

câu chuyện liên quan đến cuộc khởi nghĩa Thiên Hộ Dương và phó tướng Đốc Binh Kiều.

Các truyện này hầu hết đã được in trong “Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười”. Có điều,

những tác phẩm trước đây được gọi là giai thoại thì nay được xác định là truyền thuyết. Đây

là công trình sưu tầm truyền thuyết dân gian Nam Bộ duy nhất mà chúng tôi có được.

* Nam Kỳ cố sự [67]: Phần lớn tác phẩm được sưu tầm tại Đồng Tháp, kể về đất và

người Đồng Tháp. Trong đó có một số truyền thuyết dân gian. Tác phẩm được gọi chung là

chuyện xưa (cố sự). Một số truyện không ghi xuất xứ.

2.2.2. Nhóm tư liệu về văn học dân gian địa phương:

* Văn học dân gian – những tác phẩm chọn lọc [163]: Tập sách được sắp xếp theo thể

loại. Tác phẩm được phân theo tiểu loại hoặc thời kỳ mà chúng phản ánh. Một số tiểu loại,

tác phẩm có kèm phần tiểu dẫn, nhằm giúp người đọc hiểu đúng văn bản. Ở thể loại truyền

thuyết, tác phẩm được xếp theo thời kỳ lịch sử. Riêng thời kỳ chống Pháp, tập sách giới thiệu

3 truyền thuyết về Nguyễn Trung Trực, 2 truyền thuyết về Thiên Hộ Dương. Các truyện đều

có ghi xuất xứ.

* Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu Long [101]: Tác phẩm được sắp xếp thành hai

phần: văn xuôi, văn vần. Ở phần văn xuôi dân gian, căn cứ vào nội dung, truyện được chia

theo nhóm. Có một số truyền thuyết dân gian thời chống Pháp. Tuy nhiên, các truyện không

được xem xét ở góc độ thể loại, bởi theo các tác giả: “Nhiều truyện không còn giữ được tính

chất thể loại của nó. Một số truyện có thể là truyền thuyết nhưng lại mang màu sắc cổ tích,

một số truyện loài vật có màu sắc ngụ ngôn… Biện pháp khả thi ở đây là sắp xếp các truyện

theo nội dung” [169,14]. Do đó, một số truyền thuyết về các anh hùng chống Pháp được xem

là giai thoại.

* Nghìn năm bia miệng, 2 tập [215]: Ở lời giới thiệu, các tác giả có nhận xét về sự kế

thừa những mẫu đề, môtif truyền thống trong một số tác phẩm tự sự dân gian… Đặc biệt,

mảng truyền thuyết dân gian về các anh hùng chống Pháp được nhận xét khá sâu sắc và trang

trọng. Do được sắp xếp theo đề tài, bộ sách có hẳn mảng truyện về những nhân vật lịch sử,

đặc biệt là những anh hùng chống Pháp đã làm rạng rỡ hào khí đất Gia Định – Đồng Nai.

Các câu chuyện đều có ghi xuất xứ nhưng không được xác định về mặt thể loại.

* Thơ văn Đồng Tháp [235]: Bộ sách gồm 2 tập. Tập I dành riêng cho Thơ văn dân

gian. Riêng truyền thuyết có 16 truyện, nội dung kể về sự tích các địa danh, những anh hùng

hào kiệt buổi đầu chống Pháp. Một số truyện không ghi xuất xứ.

* Tài liệu hướng dẫn học tập thơ văn Kiên Giang trong nhà trường [236], Thơ văn

Đồng Tháp trong nhà trường [237]: Đây là giáo trình giảng dạy văn học địa phương trong

nhà trường. Mỗi bài học có in nguyên văn tác phẩm, sau đó là phần hướng dẫn đọc thêm.

Một số truyền thuyết về anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ được tuyển từ Thơ văn Đồng Tháp,

tập I.

2.2.3. Nhóm tư liệu về văn hóa dân gian Nam Bộ, địa phương chí:

* Sổ tay Hành hương đất phương Nam [218]: Nội dung tập sách, sau Chuyên luận là

phần Sổ tay hành hương. Trong phần này, nhóm tác giả giới thiệu những dạng thức tín

ngưỡng, tôn giáo ở Nam Bộ, những địa điểm hành hương tại 18 tỉnh thành của vùng đất mới

phương Nam. Lồng trong việc giới thiệu tín ngưỡng, tôn giáo có một vài mẩu chuyện về

nhân vật khởi nghĩa chống Pháp. Ví dụ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có Đức Cố Quản Trần Văn

Thành và các con Trần Văn Chái, Trần Văn Nhu... Bên cạnh đó, nhiều đền, miếu, lăng mộ

trên khắp tỉnh thành Nam Bộ gắn với việc thờ tự những anh hùng buổi đầu chống Pháp. Ví

dụ, đình Mỹ Khánh (Biên Hòa) thờ Nguyễn Tri Phương; chùa Cô Hồn (Biên Hòa) thờ 9

người lãnh đạo trại Lâm Trung chống Pháp; dinh thờ ở ấp Hàng Sao (Hóc Môn- TP.HCM)

thờ Nguyễn Ảnh Thủ; đình chánh Tân Kim (Long An) thờ ông Mai Văn Phận – tùy tướng

của Trương Định...

* Nam Bộ xưa và nay [241]: Tác phẩm tập hợp những bài viết về lĩnh vực lịch sử, văn

hóa của miền đất Nam Bộ xưa và nay. Một số bài viết về sự kiện, nhân vật lịch sử buổi đầu

chống Pháp (1858 – 1918).

* Địa chí Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh [46]: Bộ sách gồm bốn tập. Riêng tập I viết

về các chặng đường lịch sử ngót 300 năm của đất Sài Gòn – Gia Định. Tập II tổng kết thành

tựu văn học, báo chí và nghệ thuật của vùng đất này. Tập I có phần viết riêng về Sài Gòn

dưới ách thống trị thực dân Pháp từ 1859 đến 1918. Một số gương anh hùng chống Pháp

được ghi nhận (Hồ Huân Nghiệp, Trương Định, Phan Văn Hớn, Nguyễn Hữu Trí, Phan Xích

Long…). Qui mô, tính chất các cuộc khởi nghĩa được phân tích dưới góc độ sử học. Ở tập II,

phần Văn học có bài về Văn học dân gian Gia Định – Sài Gòn. Tuy dẫn chứng trong giới hạn

địa phương nhưng bài viết đã gợi mở cách nhìn về diện mạo và đặc điểm chung của văn học

dân gian cả miền đất Nam Bộ. Bài viết có đề cập truyện kể dân gian về anh hùng chống Pháp

và giai thoại về những nhà nho làm thơ đánh giặc.

* Bến Nghé xưa [143], Đất Gia Định xưa [145]: Bộ sách được viết theo dạng địa

phương chí. Tác giả không chủ định sưu tầm văn học dân gian. Tuy nhiên, có một số mẩu

chuyện mang màu sắc truyền thuyết. Chuyện kể thường có thêm đoạn tả cảnh và diễn biến

tâm lý nhân vật, thể hiện phần nhuận sắc của tác giả.

* Bạc Liêu xưa [130], Cần Thơ xưa [131], Định Tường (Mỹ Tho) xưa [132], Gia Định

xưa [133], Gò Công xưa [134], Kiến Hòa (Bến Tre) xưa [135], Sa Đéc xưa [136], Tây Ninh

xưa [137], Vĩnh Long xưa [138], Vũng Tàu xưa [139], Tân Châu xưa [104]...: Đây là bộ sách

sưu khảo của Huỳnh Minh, được viết theo dạng địa phương chí. Mỗi tập sách tổng hợp kiến

thức về địa lý, lịch sử, nhân vật, giai thoại, huyền thoại, di tích, thắng cảnh, cũng như các địa

danh năm xưa của một tỉnh ở Nam Bộ. Mỗi tập sách được chia thành từng phần mục cụ thể.

Những địa danh lịch sử, gương anh hùng chống Pháp thường xuất hiện trong phần mục về

nhân vật, giai thoại, huyền thoại. Chuyện về các anh hùng chống Pháp phần nhiều được thể

hiện dưới dạng bút kí. Các mẩu chuyện thường tản mạn. Một số sự kiện còn dừng ở dạng liệt

kê (gạch đầu dòng). Tác giả không xác định được thể loại truyền thuyết.

2.3. Các tư liệu lịch sử ghi chép về con người và sự kiện lịch sử buổi đầu chống Pháp ở Nam

Bộ

Để tiện khảo sát, chúng tôi phân nguồn tư liệu thành hai nhóm:

2.3.1. Tư liệu về giai đoạn lịch sử: Chống xâm lăng (quyển I) [47], Việt Nam Pháp

thuộc sử (1884 – 1945) [102], Việt Nam thế kỷ XIX (1802 – 1884) [181], Việt Nam – những

sự kiện lịch sử (1858 – 1918) [186]...

Các bộ sách này chủ yếu trình bày theo hướng biên niên sử, qua cái nhìn hệ thống. Mỗi

phần mục khai thác một vấn đề lớn trong lịch sử; nội dung sự kiện được ghi cụ thể, hàm súc,

chính xác. Những sự kiện, câu chuyện diễn ra từ 1858 đến 1918 đã phần nào nêu bật vai trò

lịch sử của những anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ.

2.3.2. Tư liệu về nhân vật lịch sử: Nguyễn Trung Trực [148], Anh hùng kháng Pháp

Nguyễn Trung Trực [100], Nguyễn Trung Trực – thân thế và sự nghiệp [13], 130 năm nhìn

lại cuộc đời và sự nghiệp Trương Định [189], Khởi nghĩa Trương Định [180].

Đây là tư liệu về những nhân vật lịch sử, được viết theo dạng nhân vật chí. Mỗi công

trình tập trung khắc hoạ thân thế, sự nghiệp, vai trò lịch sử… của một nhân vật anh hùng

chống Pháp. Từng chương mục lần lượt tái hiện, diễn giải nguồn gốc xuất thân, động cơ khởi

binh đánh giặc, chiến công… của nhân vật. Một số vấn đề, sự kiện được minh giải qua nhiều

nguồn cứ liệu, nhiều quan điểm khác nhau. Ví dụ, nguyên nhân Nguyễn Trung Trực sa vào

tay giặc. Một số đoạn, bài mang tính chất gợi ý khai thác nội dung, ý nghĩa của truyền thuyết

dân gian. Ví dụ, bài nghiên cứu truyền thuyết dân gian về Nguyễn Trung Trực của Bùi Mạnh

Nhị [13]. Mặt khác, trong một số chương mục của các tư liệu này, không ít mẩu chuyện

mang đặc điểm của văn bản tự sự dân gian, cụ thể là truyền thuyết dân gian [189]. Điều này

có lẽ xuất phát từ nhu cầu phục hiện sống động quá khứ, nhưng nguồn sử chính thống quá

khe khắt và hiếm hoi, các nhà sử học buộc phải cần đến sự viện trợ đắc lực của kho tàng

chuyện kể dân gian. Những mẩu truyền thuyết ấy cần sự soi rọi bởi lý thuyết folklore.

* Đại Nam liệt truyện, 4 tập [183], Đại Nam nhất thống chí, 3 tập [184]: Đây là hai bộ

sử triều Nguyễn. Tác phẩm có qui mô khá đồ sộ trong kho tàng thư tịch cổ viết bằng chữ

Hán của Việt Nam, giữa thế kỷ XIX. Mỗi bộ gồm nhiều tập. Mỗi tập có nhiều quyển. Mỗi

quyển viết nhiều chủ đề khác nhau. Đại Nam nhất thống chí trình bày nội dung theo nhóm

hành chính (Kinh Sư, Phủ Thừa Thiên, Tỉnh Quảng Bình, Đạo Hà Tĩnh…). Trong mỗi vùng,

các sử quan đều có phần viết về nhân vật. Riêng Đại Nam liệt truyện trình bày theo nhóm

nhân vật (nhân vật dòng dõi tôn thất, các bậc nữ liệt, các vị anh hùng trung nghĩa, những kẻ

phản nghịch…). Một số anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ được ghi chép công trạng (Phan

Văn Đạt, Trần Xuân Hòa, Nguyễn Hữu Huân, Trương Định…). Tuy nhiên các truyện chưa

hội đủ yêu cầu của một tự sự dân gian.

2.4. Nhận xét chung

2.4.1. Các công trình nghiên cứu về truyền thuyết dân gian, cho đến nay, đã soi rõ đặc

trưng thể loại này. Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình nào khảo sát toàn diện kho truyền

thuyết thời cận đại (trong Luận án, chúng tôi xin gọi là truyền thuyết muộn). Cụ thể, chưa có

bài viết nào đề cập và lý giải sự phai mờ của yếu tố kỳ ảo, hoang đường trong truyền thuyết

muộn; các công trình cũng chưa lý giải đầy đủ sự đan xen giữa truyền thuyết và giai thoại;

giữa truyền thuyết lịch sử và chuyện kể lịch sử.

2.4.2. Các công trình sưu tầm truyền thuyết, truyện dân gian Việt Nam nói chung hầu

hết chỉ tập hợp những câu chuyện xảy ra trước 1858. Do vậy thiếu vắng những truyền thuyết

về anh hùng buổi đầu chống Pháp. Phải chăng, thành tựu truyền thuyết dân gian từ sau 1858

(nhất là ở Nam Bộ) chưa đủ đầy đặn để được các nhà nghiên cứu lưu tâm khảo sát và thẩm

định?

2.4.3. Các công trình sưu tầm truyện dân gian Nam Bộ thực ra có đăng tải khá nhiều

truyền thuyết về các anh hùng buổi đầu chống Pháp ở Nam Bộ. Tuy nhiên, hầu hết tác phẩm

chưa được phân định rạch ròi về thể loại. Chúng thường được gọi chung là chuyện xưa (cố

sự), truyện dân gian, hoặc là giai thoại. Điều này buộc chúng tôi, để sưu tầm, tuyển chọn

đúng tác phẩm, cần phải định danh tất cả tự sự dân gian có nội dung kể về những cuộc khởi

nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ.

2.4.4. Một số công trình sưu tầm, biên khảo truyện dân gian Nam Bộ được thực hiện

bởi một cá nhân, lại được biên tập và in ấn bởi các nhà xuất bản địa phương. Từ đó phát sinh

một số điều “chưa ổn”. Cụ thể, đó là lối diễn đạt riêng, theo phong cách ngôn ngữ viết làm

mất đi sự tươi mới, sinh động của phương ngữ Nam Bộ. Đó là hiện tượng sai chính tả, lỗi cú

pháp trong các văn bản kể - hoàn toàn không phải phong cách dân gian. Điều này buộc

chúng tôi, khi sưu tầm, biên soạn, phải cố gắng đưa bản kể về lối diễn đạt gần “chất dân

gian” hơn.

2.4.5. Một số công trình biên khảo văn hóa dân gian, tư liệu lịch sử đã xem những mẩu

chuyện về nhân vật và sự kiện lịch sử chỉ như nguồn dữ liệu cho bài viết. Do không chủ định

công bố tác phẩm truyền thuyết nên tác giả không kể chúng theo hình thức văn bản tự sự dân

gian. Điều này gợi ý chúng tôi nên học cách biên soạn các mẩu chuyện rời rạc ấy thành

những văn bản truyền thuyết dân gian

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Như tên đề tài, Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam

Bộ (1858 – 1918), đó là đối tượng nghiên cứu của chúng tôi.

Bản thân thể loại truyền thuyết vốn đã phức tạp. Sự hiện diện của nó trong giai đoạn

lịch sử từ nửa cuối thế kỷ XIX, ở Nam Bộ, lại càng phức tạp hơn. Những truyền thuyết kể về

thời này, hầu hết, đều mang vết nhuận sắc của cá nhân người đời sau, tồn tại qua các loại văn

bản. Điều đó buộc chúng tôi phải cân nhắc, khi ranh giới giữa dân gian và sử biên niên khá

mờ nhạt, giữa truyền thuyết và giai thoại vẫn chưa định rõ.

Chúng tôi tự giới hạn đối tượng nghiên cứu là những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở đất

Gia Định xưa, sau được gọi là Nam Kỳ lục tỉnh, giờ là các tỉnh thành Nam Bộ - miền đất trải

dài từ lưu vực sông Đồng Nai đến phần hạ lưu của chín nhánh sông Cửu Long. Còn giới hạn

thời gian, chọn giai đoạn từ 1858 đến 1918, chúng tôi dựa vào mốc khảo sát của một số nhà

nghiên cứu sử học để tìm bản chất của đối tượng, tính chân thật của sự kiện. Mặt khác, giới

hạn này phù hợp với nguồn tư liệu mà chúng tôi đã sưu tầm, biên soạn được. Dĩ nhiên, mốc

thời gian 1858 – 1918 chỉ mang tính tương đối và đúng hơn, các mốc này chỉ có ý nghĩa

trong giới hạn đề tài mà chúng tôi đề cập đến.

4. Mục tiêu nghiên cứu

Chúng tôi cố gắng đạt đến, trong chừng mực tốt nhất có thể, những mục tiêu chính sau

đây:

4.1. Hệ thống hóa truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ

(1858 – 1918)

4.1.1. Dựa vào đặc điểm thể loại và tiêu chí nội dung, tiến hành sưu tầm, tuyển chọn các

văn bản truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 –

1918);

4.1.2. Dựa vào nội dung (nhân vật và sự kiện lịch sử), hệ thống hóa các truyền thuyết

tìm được (trên cơ sở xây dựng các mảng truyện, nhóm truyện).

4.2. Khảo sát Hệ thống truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam

Bộ (1858 – 1918)

4.2.1. Nhận xét tình hình văn bản, đặc điểm kết cấu tác phẩm trong từng nhóm truyện;

4.2.2. Mô tả nội dung lịch sử từng nhóm truyền thuyết, kết hợp so sánh với chính sử để

thấy được phần đóng góp đáng kể của truyền thuyết đối với lịch sử dân tộc.

4.3. Giới thiệu những motif đặc sắc, tiêu biểu cho diện mạo của truyền thuyết dân gian về

những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918)

4.3.1. Qua khảo sát tần số xuất hiện của các tình tiết trong từng tác phẩm, từng nhóm

truyện, đề xuất những motif, nhóm motif đặc sắc cần khảo sát.

4.3.2. Qua đối sánh với những motif truyền thống trong các tự sự dân gian giai đoạn

trước, làm rõ sự kế thừa và vẻ đẹp mới mẻ, độc đáo của các motif trong hệ thống truyền

thuyết vừa xây dựng.

4.4. Khảo sát một số nhóm chứng tích văn hóa liên quan đến truyền thuyết dân gian về

những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918)

4.4.1. Ghi nhận những nhóm chứng tích văn hóa quan trọng, gắn liền với hệ thống

truyền thuyết vừa khảo sát như địa danh; phần mộ; miếu, đền, đình, chùa; lễ hội...

4.4.2. Bước đầu phân tích cơ sở hình thành và ý nghĩa các chứng tich văn hóa, xét từ

phương diện văn hóa – lịch sử - xã hội.

4.4.3. Khẳng định sức sống và ý nghĩa thiêng liêng của truyền thuyết dân gian (1858 –

1918) đối với đời sống tâm linh của đồng bào Nam Bộ. Khẳng định sự tồn tại vững chãi của

thể loại truyền thuyết trong tiến trình lịch sử và vai trò đặc biệt của nó đối với sự trưởng

thành của một dân tộc.

5. Phương pháp nghiên cứu

Truyền thuyết dân gian là thể loại lớn của văn học dân gian, cũng là một bộ phận quan

trọng cấu thành tầm vóc, giá trị của nền văn học dân tộc. Do vậy, chọn truyền thuyết dân

gian làm đối tượng nghiên cứu, chúng tôi dùng những phương pháp nghiên cứu văn học dân

gian làm nền tảng. Đồng thời, chúng tôi cũng kết hợp với những phương pháp của khoa

nghiên cứu văn học.

Trong phạm vi Luận án, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp cụ thể sau:

5.1. Phương pháp loại hình lịch sử: khảo sát từng văn bản truyền thuyết và cả hệ thống

truyền thuyết dân gian (1858 – 1918), qua việc đặt tác phẩm trở lại bối cảnh lịch sử xã hội,

môi trường nó chào đời, nhằm phát hiện những khúc xạ của lịch sử vào trong tác phẩm, kể cả

những hào quang mà nó tỏa chiếu trên nền lịch sử.

5.2. Phương pháp phân loại, hệ thống hóa:

5.2.1. Phân loại những tác phẩm sưu tầm được, chọn hoặc loại bỏ chúng (dựa trên các

tiêu chí thể loại, giới hạn nghiên cứu và đối tượng khảo sát);

5.2.2. Hệ thống hóa các văn bản rời rạc, đưa chúng vào từng mảng, nhóm truyện; khảo

sát từng motif qua việc đặt chúng trong một hệ thống motif cụ thể.

5.3. Phương pháp thống kê, miêu tả:

5.3.1. Sử dụng số liệu thống kê làm cơ sở phát hiện sự tồn tại của các motif trong Hệ

thống truyền thuyết dân gian;

5.3.2. Miêu tả kết cấu, đặc điểm nội dung của từng mảng, nhóm truyện; miêu tả cảm

hứng chủ đạo, dấu ấn mới mẻ, độc đáo của Hệ thống truyền thuyết dân gian…

5.4. Phương pháp phân tích, so sánh

5.4.1. Phân tích kết cấu tác phẩm, sự truyền cảm của các chi tiết nghệ thuật, vẻ đẹp lung

linh của hình tượng nhân vật; phân tích dấu vết truyền thống và những sáng tạo mới trong

từng motif.

5.4.2. So sánh tác phẩm với tác phẩm, mảng truyện này với mảng truyện khác, truyền

thuyết giai đoạn này với giai đoạn trước, truyền thuyết lịch sử với các thể loại gần gũi, giao

thoa (giai thoại, chuyện kể lịch sử…). Đây là cơ sở hữu hiệu để thấy được sự thống nhất của

hệ thống, sự đa dạng của tác phẩm, sự thâm nhập, chuyển hóa giữa các thể loại văn học,…

5.5. Phương pháp sưu tầm và thẩm định tư liệu

5.5.1. Sưu tầm tác phẩm, chủ yếu qua việc khoanh vùng các nguồn tài liệu có trữ lượng

lớn về văn học dân gian Nam Bộ, soi rọi chúng dưới ánh sáng của lý thuyết thể loại, dựa vào

“chất dân gian” để đưa chúng vào hệ thống. Cố gắng sưu tầm những mẩu truyền thuyết còn

ẩn khuất ở miền quê, qua lời kể của người dân địa phương.

5.5.2. Thẩm định từng tác phẩm trong hệ thống, thông qua việc chọn lọc, sắp xếp theo

nhóm nội dung, theo đơn vị motif; kết hợp thao tác tìm về một số địa phương để chứng thực

sự tồn tại của nó. Dựa vào “chất dân gian”, đặc trưng thể loại để thẩm định những trường

hợp phức tạp: tồn tại dị bản (nếu có), nhiều bản kể khác nhau, nhiều xuất xứ khác nhau, sự

nhập nhằng ở đường biên thể loại…

6. Đóng góp mới của Luận án

Luận án của chúng tôi xin có những đóng góp cụ thể sau:

6.1. Giới thiệu tổng quan những công trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian có đề cập

thể loại truyền thuyết, đặc biệt là truyền thuyết dân gian thời chống Pháp ở Nam Bộ (1858 –

1918).

6.2. Đề xuất một khung tiêu chí phục vụ việc sưu tầm, biên soạn truyền thuyết dân gian thời

cận đại. Từ đó hệ thống hóa truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở

Nam Bộ (1858 – 1918). Các nhóm, mảng trong hệ thống có khả năng thu nhận bất cứ truyền

thuyết nào (thỏa điều kiện) được tiếp tục sưu tầm và phát hiện. Hệ thống này sẽ dự phần vào

kế hoạch sưu tầm, hệ thống hóa toàn bộ kho tàng truyền thuyết dân gian ở Việt Nam.

6.3. Phân tích vẻ đẹp hồn nhiên, sức hấp dẫn đặc biệt của truyền thuyết dân gian buổi đầu

chống Pháp ở Nam Bộ; đồng thời chỉ ra phần bổ sung đáng quý của nó cho sự khe khắt của

chính sử triều Nguyễn bấy giờ.

6.4. Giới thiệu một số motif, nhóm motif đặc sắc trong hệ thống truyền thuyết vừa xây dựng.

Qua đó, phát hiện sự kế thừa và sáng tạo trong các truyền thuyết muộn, bước đầu thấy được

sự vận động và những biến đổi của bản thân thể loại.

6.5. Giới thiệu một số chứng tích văn hóa liên quan đến truyền thuyết về những cuộc khởi

nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ để làm sáng tỏ thêm đời sống tâm linh của đồng bào Nam Bộ,

đồng thời khẳng định vai trò đặc biệt của truyền thuyết dân gian trong suốt tiến trình giữ

nước của dân tộc Việt Nam.

7. Kết cấu Luận án

Luận án được chia thành các phần mục như sau:

Mở đầu 14 trang

Chương 1: Hệ thống hóa truyền thuyết dân gian về những cuộc

khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918) 21 trang

Chương 2: Khảo sát các nhóm truyền thuyết trong hệ thống truyền

thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở

Nam Bộ (1858 – 1918)

33 trang

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!