Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Trung tâm nghiên cứu Bò và đồng cỏ Ba vì 50 năm xây dựng và phát triển
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
KHOA HỌC KỸ THUẬT
2 Tạp chí chăn nuôi số 12 – 09
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái http:// www.lrc-tnu.edu.vn
Trung tâm nghiên cứu Bò và đồng cỏ Ba vì
50 năm xây dựng và phát triển
Nguyễn Hữu Lương
Giám đốc Trung tâm
rung tâm nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì là
đơn vị sự nghiệp khoa học công lập thuộc Viện
Chăn nuôi, có tiền thân từ Nông trường Quốc doanh
Ba Vì, được thành lập vào năm 1958 trực thuộc Công
ty Nông trường Trung ương, đến năm 1977 chuyển
Nông trường về Viện Chăn nuôi theo Quyết định số
210/NN-TC-QĐ và được Bộ Khoa học Công nghệ và
Môi trường cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động
khoa học và công nghệ .
Trung tâm nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì,
nhìn lại chặng đường hơn 50 năm xây dựng và phát
triển, 20 năm đổi tên và chuyển chế độ quản lý. Từ
khi thành lập, Trung tâm đều gắn chức năng nhiệm
vụ là nghiên cứu khoa học về lĩnh vực chăn nuôi
bò sữa, bò thịt và đồng cỏ. Một chặng đường dài
nghiên cứu khoa học đầy khó khăn, gian khổ và
thành công. Những kết quả nghiên cứu khoa học là
sự đóng góp của tập thể lãnh đạo, cán bộ công
nhân viên chức ở các thời kỳ trong chặng đường
dài ấy. Những thành tựu nổi bật được tóm tắt như
sau:
1. Kết quả nghiên cứu về bò sữa
- Đầu năm 1960, nông trường được tiếp nhận
đàn bò sữa Holstein Friesian (bò HF lang trắng đen)
do Trung Quốc viện trợ. Song do điều kiện khí hậu
nóng ẩm không phù hợp, đàn bò bị nhiễm bệnh ký
sinh trùng đường máu làm một số bò bị chết, những
con còn sống gầy yếu, năng suất thấp. Khi đó chẩn
đoán và xác định nguyên nhân chủ yếu là do đàn bò
nhập nội không thích nghi với khí hậu nhiệt đới nóng
ẩm vùng Ba Vì. Tháng 2 năm 1963, công tác điều tra
phẩm chất đàn bò được tiến hành. Bộ Nông trường đã
quyết định chuyển giao phần lớn số bò trên cho Nông
trường Mộc Châu và Nông trường Tam Đường, nơi
có khí hậu tương đối ôn hòa phù hợp với đàn bò sữa
này hơn. Vì vậy, số bò còn lại được tập trung chăm
sóc, dần dần phục hồi, cho năng suất sữa cao. Sau đó,
để có được đàn bò sữa cao sản thích nghi với điều
kiện khí hậu nóng ẩm, đề tài “Nghiên cứu tạo giống
bò sữa bằng phương pháp tạp giao giữa bò lai Sind
với bò lang trắng đen Trung Quốc” đã được thực hiện
tại Nông trường Quốc doanh Ba Vì.
- Năm 1964, tiến hành bằng phương pháp dùng
tinh lỏng của bò đực HF Trung Quốc cho phối với bò
cái lai Sind. Đề tài được phân chia làm hai mảng:
+ Thuần chủng bò lai Sind: chọn bò cái tuy đã
có máu Sind nhưng tầm vóc vẫn còn nhỏ (dưới 250
kg) cho phối với tinh bò Sind thuần bằng cách cho
nhảy trực tiếp để nâng cao tầm vóc của bò thế hệ sau
(bò nền).
+ Dùng tinh bò đực HF Trung Quốc phối cho
bò nền có máu bò Sind, tầm vóc trên 250 kg để tạo
ra đàn bò lai F1 được gọi là bò Hà ấn F1.
- Đến năm 1966, đàn bò Hà ấn F1 bắt đầu cho
sữa. Cuối năm 1968, đề tài tiến hành báo cáo tổng kết
về thế hệ đàn bò lai Hà ấn F1, lúc này có gần 200 con
trong tổng đàn 1297 con của Nông trường Ba Vì.
Sản lượng sữa bình quân của bò Hà ấn F1 đạt
1500 kg/con/chu kỳ cao hơn hẳn sản lượng 800
kg/con/chu kỳ của bò lai Sind được nuôi lấy sữa tại
nông trường cho đến thời điểm đó. Hơn nữa, bò F1
thích nghi với điều kiện nhiệt đới nóng ẩm ở Ba Vì.
Với kết quả đó, Nông trường Ba Vì tập trung nhiệm
vụ vào hướng sản xuất bò lai và cho lai tiếp đời thứ
hai (F2) và đời thứ ba (F3), Con đường tạo giống bò
lai hướng sữa Việt Nam có thể nói bắt đầu hình thành
T