Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

trình bày quan điểm của chủ nghĩa mác – lênin về “lợi nhuận
MIỄN PHÍ
Số trang
24
Kích thước
236.1 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1104

trình bày quan điểm của chủ nghĩa mác – lênin về “lợi nhuận

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Đề tài:

Trình bày quan điểm

của chủ nghĩa Mác – Lênin về “lợi nhuận”

I. Các quan điểm về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận:

1. Quan điểm của chủ nghĩa trọng thương về vấn đề lợi nhuận:

Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào thời kỳ quá độ, nền kinh tế phong

kiến bước vào thới kỳ suy đồi và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình

thành. Giai cấp tư sản tăng cường dùng những biện pháp bạo lực như xâm

chiếm đất đai, trao đổi không ngang gía nhằm đẩy nhanh quá trình tích luỹ

nguyên thuỷ Tư Bản. Bên cạnh đó trong lĩnh vực khoa học tự nhiên( cơ học,

thiên văn học, địa lý...) đã có sư phát triển mạnh mẽ. Để biện hộ cho những

hành vi của mình, giai cấp tư sản đã đưa ra học thuyết trọng thương.

Các nhà kinh tế học của trường phái Trọng Thương đã đi tìm nguồn gốc

của lợi nhuận trong lưu thông. Họ cho rằng:“Lợi nhuận là do lĩnh vực lưu

thông trao đổi mua bán sinh ra nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều,mua

rẻ bán đắt. Không một người nào được lợi mà không làm hại cho kẻ khác.

Dân tộc này làm giàu bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc khác. Trong trao

đổi phải có một bên thua để bên kia được lợi.”

Có thể thấy các nhà kinh tế học của trường phái Trọng Thương chưa

thấy được nguồn gốc thực sự của lợi nhuận là xuất phát từ quá trình sản xuất.

Mặc dù còn những sai lầm về cơ bản nhưng hệ thống quan điểm của chủ

nghĩa Trọng Thương đã tạo ra nhiều tiền đề kinh tế – xã hội cho các lý luận

kinh tế thị trường sau này phát triển.

2. Các quan điểm của trường phái cổ điển:

a. Quan điểm của William Petty:

W.Petty là nhà đại biểu nổi bật nhất của tư tưởng kinh tế Châu Âu trong thời

kỳ tan rã của Chủ Nghĩa Trọng Thương. K. Mark đánh giá cao W. Petty, coi ông

là người sáng lập ra Kinh Tế Học, Mark viết “ Khoa học cổ điển là toàn bộ mọi

Khoa Học Kinh Tế kể từ W. Petty trở đi đã tìm hiểu cái hiện thực nội tại của các

QHSX trong xã hội Tư Sản ”. Ông là người đầu tiên khởi xướng lý thuyết về giá trị

lao động và phát triển lý thuyết này thành học thuyết giá trị lao động.

Xuất phát từ lý luận này,W.Petty đã nghiên cứu về gía trị thặng dư, tuy chưa

đi sâu nhưng ông đã nêu lên khá rõ nét về hai hình thức biểu hiện của giá trị thặng

dư là địa tô và lợi tức. Ông đã định nghĩa: “Địa tô Tư Bản Chủ Nghĩa là số chênh

lệch giữa giá trị của sản phẩm và chi phí sản xuất. Địa tô là một phần của lợi

nhuận nhờ độ phì nhiêu của đất đai và vị trí canh tác”. Như vậy W. Petty đã

thấy được địa tô chênh lệch một.

1

Về lợi tức,trong tác phẩm “Bàn về tiền tệ ”, W. Petty cho rằng: “ Lợi tức

cũng như tiền thuê ruộng đất, là số tiền trả cho việc nhịn ăn tiêu và thưởng cho sự

mạo hiểm ”. Mức lợi tức phụ thuộc vào những điều kiện tự nhiên và tự phát.

Từ lý thuyết địa tô và lợi tức, W.Petty đã cố gắng giải thích về giá cả ruộng đất.

Ông khẳng định rằng giá cả ruộng đất phải được qui định một cách đặc biệt và gắn

giá cả ruộng đất với mức địa tô. Nhưng ông đã sai lầm vì cho rằng giá cả ruộng đất

bằng 20 địa tô/ năm. Có sai lầm này là do W.Petty chưa thấy được giá cả ruộng đất

một mặt có quan hệ với địa tô, mặt khác có quan hệ với tỷ suất lợi tức. Ông chưa

thấy giá cả ruộng đất chính là địa tô Tư Bản hoá.

Tóm lại, mặc dù còn nhiều thiếu sót và còn chịu ảnh hưởng của Chủ Nghĩa

Trọng Thương nhưng W.Petty đã có những bước tiến lớn khắc phục được những

sai lầm cơ bản của Chủ Nghĩa Trọng Thương như: Đã thấy được lợi nhuận từ lĩnh

vực sản xuất, nêu ra được mầm mống của lý luận về vấn đề bóc lột. Chính W.Petty

đã đặt nền tảng ban đầu cho Kinh Tế học cổ điển ở nước Anh.

b. Quan điểm của Adam Smith:

A.Smith (1723 – 1790) là người mở ra giai đoạn mới trong sự phát triển của

Kinh Tế Chính Trị Tư Sản. A.Smith đã xây dựng lý luận về lợi nhuận trên cơ sở lý

luận về giá trị lao động. Ông cho rặng lợi nhuận là “khoản khấu trừ thứ hai ” vào

sản phẩm của người lao động, chúng đều có chung nguồn gốc là lao động không

được trả công của người công nhân. Một mặt ông gắn lợi nhuận với quá trình sản

xuất, là kết quả của sự bóc lột, nhưng mặt khác ông đã phạm phải một sai lầm đó

là cho rằng lợi nhuận được tạo ra trong lưu thông. Khi nói về lợi tức, ông xem lợi

tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà Tư Bản hoạt động bằng tiền đi vay phải

trả cho chủ nợ để được sử dụng Tư Bản. Ông đã thấy xu hướng bình quân hoá tỉ

suất lợi nhuận và xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng Tư Bản tăng

lên,vạch ra một cách đúng đắn mối quan hệ giữa tỉ suất lợi nhuận với Tư Bản.

Về địa tô, A.Mith chịu nhiều ảnh hưởng của trường phái Trọng Nông, ông đã

thấy được địa tô và lợi nhuận có cùng nguồn gốc với nhau, đều là kết quả lao động

của người khác. Địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm người lao động

còn lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai. Về mặt chất nó phản ánh quan hệ bóc lột.

Tuy nhiên, A.Mith còn có những hạn chế về lý luận lợi nhuận như: Chưa nêu ra

được lý luận hoàn chỉnh về lợi nhuận. Mặt khác ông không phân biệt được lĩnh

vực sản xuất và lưu thông nên cho rằng Tư Bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như

trong lưu thông đều tạo ra lợi nhuận như nhau. Hơn nữa ông còn quan niệm lợi

nhuận là số tiền trả cho chủ xí nghiệp về sự rủi ro trong quá trình hoạt động sản

xuất kinh doanh, ông cũng phủ nhận lý luận giá trị thặng dư.

c. Quan điểm của David Ricardo:

Nếu như A.Smith sống trong thời kỳ công trường thủ công phát triển mạnh

mẽ thì D.Ricardo sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Đó là điều kiện

khách quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.Smith dừng lại. Theo Mác

D.Ricardo là nhà tư tưởng của thời đại công nghiệp.

2

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!