Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

tổng quan về tổ chức lãnh thổ
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TỒNG QUAN
VỀ TỔ CHỨC LÃNH
THỔ
PHẦN MỞ ĐẦU
Địa lí kinh tế - xã hội là một khoa học xã hội nghiên cứu quy luật
phân bố sản xuất xã hội và sự định cư của dân cư cũng như đặc điểm của
chúng ở các vùng lãnh thổ khác nhau. Gắn với sự phân bố là việc tổ chức
lãnh thổ sản xuất nói chung và của từng ngành nói riêng. Một trong những
đơn vị tổ chức lãnh thổ kinh tế là các vùng kinh tế.
Vùng kinh tế là một khái niệm rất phổ biến, thông dụng, nhưng lại
được hiểu một cách khác nhau tùy thuộc vào từng ngành khoa học. Dẫu sao
khi đề cập đến vùng là phải nói đến một lãnh thổ với vị trí nhất định.
Đối với khoa học địa lí kinh tế - xã hội, vùng kinh tế được coi là một
thực thế khách quan, mà sự tồn tại của nó là do yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của mỗi quốc gia quyết định. Ở nước ta, công tác phân vùng được
triển khai từ những năm 1960 và càng được phát triển hoàn thiện hơn.
Vùng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhưng không phải là bất biến.
Nó có thể thay đổi, phụ thuộc chủ yếu vào trình độ phát triển kinh tế từng
giai đoạn nhất định. Ở nước ta đã có nhiều phương án phân vùng khác
nhau, từ 4 vùng kinh tế của những năm 80 thế kỉ XX đến 7 vùng kinh tế
hay 8 vùng kinh tế đang hiện hành. Gần đây là phương án 6 vùng kinh tế
gắn với vùng kinh tế trọng điểm.
Với mục đích cung cấp hệ thống kiến thức cơ bản về tổ chức lãnh
thổ kinh tế, vùng kinh tế chúng tôi đã hoàn thành bài tiểu luận này. Hi vọng
đây sẽ là nguồn tài liệu giúp ích cho công tác giảng dạy Địa lí.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔ CHỨC LÃNH THỔ NỀN KINH TẾ
I. Khái niệm
Tổ chức lãnh thổ, về đại thể, là sự kiến thiết lãnh thổ. Trong một
lãnh thổ có nhiều thành phần về tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội …
Vấn đề là ở chỗ phải tổ chức như thế nào để đạt được mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở đó, tổ chức lãnh thổ được hiểu là sự sắp xếp các thành
phần (đã, đang hoặc dự kiến sẽ có) trong mối liên hệ đa ngành, đa lãnh thổ
ở một vùng nhằm sử dụng hợp lí các nguồn lực để đạt hiệu quả cao nhất về
mặt kinh tế, xã hội, môi trường và phát triển bền vững.
Từ quan niệm nói trên, tổ chức ở đây là việc sắp xếp, bố trí các thành
phần (các ngành hay lĩnh vực kinh tế, cơ cấu hạ tầng, các điểm dân cư…)
trong tổng thể các mối quan hệ đa chiều. Với cách hiểu như vậy, một số
nhà khoa học phương Tây đã coi tổ chức lãnh thổ (không gian) như là việc
lựa chọn nghệ thuật sử dụng lãnh thổ đúng đắn và có hiệu quả (Jean Pean
Paul De Gaudemar (1992). Chính việc sắp xếp, bố trí theo trật tự mới trên
lãnh thổ sẽ tạo ra những giá trị mới. Hơn nữa, việc tổ chức phải được triển
khai trên một lãnh thổ xác định theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
chủ thể tổ chức cũng là chủ thể quản lí công tác phát triển vùng.
Trên thế giới, đặc biệt ở Châu Âu tổ chức lãnh thổ ra đời từ thế kỷ
XIX và đã trở thành một khoa học quản lý lãnh thổ.
Ở Việt Nam, nghiên cứu tổ chức lãnh thổ là công việc đã có từ lâu
cách đây mấy chục năm khi các nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu vấn đề
phân vùng, quy hoạch, phân bố lực lượng sản xuất. Còn về khía cạnh nếu
coi tổ chức hành chính là một nội dung của tổ chức lãnh thổ thì từ khi lập
nước, cứ mỗi lần thay đổi triều đại, thì mỗi lần lại thay đổi cương vực và
ngay cả tên của các khu vực hành chính. Và điều thực tế là từ ngàn xưa, các
dân tộc sống trên lãnh thổ của từng quốc gia đã luôn luôn “tổ chức” lãnh
thổ của mình (dù tự giác hay không tự giác) nhằm đảm bảo cuộc sống và
hưng thịnh quốc gia.
“Không gian” và “lãnh thổ” là hai từ rất phổ biến trong các công trình
nghiên cứu địa lý. Nói chung, theo nghĩa thông thường hai từ đó là như
nhau, không kể vài trường hợp nói đến phạm trù có nội dung xác định.
Thuật ngữ “Tổ chức không gian” kinh tế - xã hội và “Tổ chức lãnh
thổ” kinh tế - xã hội gần như đồng nghĩa trong khoa học địa lý. Chúng tôi
hiểu tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội dưới hai khía cạnh:
1. Tổ chức lãnh thổ như toàn bộ quá trình hay hành động của con
người nhằm phân bố các cơ sở sản xuất và dịch vụ, phân bố dân cư, sử
dụng tự nhiên, có tính đến các mối quan hệ, liên hệ của chúng, các sự phụ
thuộc lẫn nhau của chúng. Các hành động này được thực hiện phù hợp với
các mục tiêu của xã hội và trên cơ sở các quy luật kinh tế hoạt động
trong hình thái kinh tế- xã hội ấy. Mục tiêu cơ bản của tổ chức lãnh thổ
là nhằm tiết kiệm lao động xã hội nhờ cải thiện cơ cấu sản xuất - lãnh thổ
của nền kinh tế và cải thiện cơ cấu tổ chức sản xuất của đất nước hay của
từng vùng cụ thể. Tổ chức lãnh thổ cũng nhằm phát triển tổng hợp, có hiệu
quả cao nền sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, sử dụng hợp lý các
nguồn tài nguyên. Có thể nói, tổ chức lãnh thổ kinh tế –xã hội là một biện
pháp quan trọng nhằm phát triển bền vững.
2. Tổ chức lãnh thổ kinh tế –xã hội còn được hiểu như sự kết hợp của
các cấu trúc lãnh thổ đang hoạt động: cấu trúc lãnh thổ quần cư, cấu trúc
không gian xã hội, cấu trúc không gian sản xuất, cấu trúc không gian sử
dụng tự nhiên…Ở đây không thể bỏ qua một số nội dung phân vùng và cả
quy hoạch vùng. Đó là xác định các tỷ lệ và quan hệ hợp lý về phát triển
kinh tế –xã hội giữa các ngành trong một vùng, giữa các vùng nhỏ trong
vùng lớn, giữa các vùng lớn trong một quốc gia và trên mức độ nào đó có
xét đến các mối liên kết giữa các quốc gia. Các cấu trúc này được thống
nhất lại bởi các cơ cấu quản lý quá trình tái sản xuất xã hội. Theo cách hiểu
này, thì khi nghiên cứu tổ chức lãnh thổ kinh tế –xã hội của một vùng nhất
định, ta phải nghiên cứu các cấu trúc không gian thành phần. Cũng với
cách tiếp cận tổ chức lãnh thổ như vậy thì cấu trúc của một vùng (lãnh thổ)
còn bao gồm các điểm, các “cực”, các nút và các dải, các tuyến lực và một
không gian bề mặt. Các yếu tố đó có quan hệ, sức hút lan toả và ảnh hưởng
lẫn nhau.
Để tiến hành nghiên cứu tổ chức lãnh thổ phải có sự phân tích những
phân dị địa lý để tìm ra các cấu trúc không gian (cấu trúc lãnh thổ); phân
tích mối quan hệ lãnh thổ, sự tác động qua lại giữa các cấu trúc không gian
thành phần để tổng hợp lại, nhận dạng một không gian chung.
Tổ chức lại lãnh thổ là một nhiệm quan trọng về mặt xã hội của khoa
học địa lý Việt Nam. Chính nó sẽ đảm bảo việc thực hiện tốt nhất mục tiêu
chung là xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
và văn minh”. Việc đặt kế hoạch cho sự phát triển kinh tế đất nước không
thể quên khía cạnh xã hội đó.
Để thực hiện các mục tiêu nói trên, sự phát triển kinh tế của đất nước
phải được bền vững và ổn định. Tính công bằng xã hội là một định hướng
lớn của các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo những cơ hội
ngang bằng nhau cho từng vùng, từng địa phương và ngay cả cho từng
người dân nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Nếu tính công bằng xã
hội không được đảm bảo thì tính ổn định sẽ bị ảnh hưởng, nhất là tính ổn
định xã hội và ngược lại. Cả hai sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững. Ở nước
ta, hệ thống cấu trúc lãnh thổ cần phải giúp đạt được sự cân đối giữa các
yếu tố cấu thành (xem sơ đồ).
SƠ ĐỒ MÔ HÌNH HỆ THỐNG CẤU TRÚC LÃNH THỔ
TÍNH ỔN ĐỊNH TÍNH BỀN VỮNG
- Chính trị - Tăng trưởng kinh tế đều đặn
- Luật pháp - Môi trường được bảo vệ
- Tiền tệ, giá cả
TÍNH CÔNG BẰNG
Giảm chênh lệch
giữa các địa phương
giữa giàu và nghèo
II. Nhiệm vụ
Tổ chức lãnh thổ có hai nhiệm vụ chính là:
- Dự báo về mặt phát triển: dự báo được sự phát triển trong tương lai của
các ngành (lĩnh vực) và các nội dung có liên quan trên lãnh thổ của vùng.
- Luận chứng các phương án kiến thiết lãnh thổ: trên cơ sở luận chứng
khoa học dự kiến phân bố ở đâu cho có hiệu quả nhất.
Hai nhiệm vụ kể trên có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm mục đích tổ
chức lãnh thổ sao cho hợp lí và hiệu quả.
III. Các hình thức tổ chức lãnh thổ.
Tổ chức lãnh thổ có hai hình thức chủ yếu tùy theo đối tượng cụ thể:
Tổ chức lãnh thổ theo các đối tượng quản lí và xây dựng kế hoạch
phát triển của nhà nước: Đối tượng ở đây được hiểu là các vùng kinh tế,
các đơn vị hành chính hiện hành (ở nước ta là tỉnh hay thành phố tương
đương cấp tỉnh, huyện, thị...). việc tổ chức lãnh thổ cần được triển khai
theo các vùng kinh tế, các tỉnh, thành huyện thị mà theo pháp luật đó là các
đối tượng quản lí và xây dựng kế hoạch phát triển.
Tổ chức lãnh thổ theo các khu vực đặc biệt – là các đối tượng trọng
điểm đầu tư. Các khu vực (lãnh thổ) đặc biệt gồm có:
+ Vùng kinh tế trọng điểm: Vùng hội tụ các thế mạnh phát triển và có
vai trò quyết định đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
+ Hành lang kinh tế: Hành lang dựa trên tuyến giao thông huyết mạch
kết nối các cực phát triển với sự tập trung dọc tuyến đó là các cơ sở kinh tế.
+ Tam giác tăng trưởng: Tam giác với 3 đỉnh tập trung nhiều tiềm
năng mà việc khai thác chúng sẽ tạo nên động lực phát triển kinh tế.
+ Khu công nghiệp: Gồm khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất,
khu công nghệ cao vơi mục đích chính là thu hút vốn đầu tư ở trong và
ngoài nước, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
+ Đặc khu kinh tế, khu mậu dịch tự do – là những khu vực đặc biệt,
được hưởng nhiều ưu đãi của nước sở tại nhằm thu hút đầu tư nước ngoài
để phát triển kinh tế.
+ Các khu vực đặc biệt khác: khu du lịch, vườn quốc gia, khu bảo tồn
thiên nhiên...
CHƯƠNG 2: VÙNG KINH TẾ
I. Định nghĩa vùng kinh tế
1. Quan niệm về vùng
Vùng là một khái niệm mặc dù thông dụng, nhưng lại được hiểu khác
nhau. Tuy nhiên nói đến vùng là nói đến lãnh thổ nhất định.
Theo từ điển Bách khoa địa lí Xô viết (1988) vùng là một lãnh thổ
được tách ra trên cơ sở tập hợp các dấu hiệu có quan hệ mật thiết với nhau,
là cấp phân vị trong hệ thống phân chia lãnh thổ. Còn về phương diện địa
lí, vùng là một lãnh thổ toàn vẹn thường được đặc trưng bằng sự đồng nhất
về nguồn gốc, về các bộ phận có quan hệ qua lại với nhau của lớp vỏ địa lí
hoặc nền sản xuất xã hội. Còn ngắn gọn hơn, theo từ điển tiếng Việt
(1994), vùng là phần đất đai, hoặc nói chung là không gian tương đối rộng
có những đặc điểm về tự nhiên hay xã hội, phân biệt với các phần khác ở
xung quanh.
Trong công trình “Việt Nam – lãnh thổ và các vùng địa lí” (1998), GS
Lê Bá Thảo đã xác định vùng là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia có một
sắc thái đặc thù nhất định, hoạt động như một hệ thống do có những mối
quan hệ tương đối chặt chẽ giữa các thành phần cấu tạo nên nó, cũng như
mối quan hệ có chọn lọc với các không gian các cấp bên ngoài.
Trên cơ sở những quan niệm trên, có thể khẳng định rằng như một hệ
thống, vùng là một lãnh thổ tương đối đồng nhất bao gồm các bộ phận cấu
thành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của bản than lãnh thổ đó cũng như giữa nó với các lãnh thổ khác
2. Định nghĩa vùng kinh tế
Theo Từ điển bách khoa Địa Lý Xô Viết (1988), vùng kinh tế là một
bộ phận tương đối hoàn chỉnh về lãnh thổ và kinh tế của đất nước. Nó được
đặc trưng bởi các điều kiện tự nhiên, kinh tế và chuyên môn hóa sản xuất
trên cơ sở phân công lao động hợp lý cũng như bởi các mối liên hệ kinh tế
nội vùng ổn định.Vùng kinh tế còn là một khâu cơ bản trong việc tổ chức
lãnh thổ nền sản xuất xã hội, là đối tượng chủ yếu của chính sách vùng và
kế hoạch hóa lãnh thổ.
Kế thừa thành quả của khoa học địa lí Xô Viết, các nhà khoa học Việt
Nam cũng đưa ra quan niệm về vùng kinh tế, từ Minh Chi, Trần Đình Gián,
Nguyễn Văn Quang… vào thập kỉ 60-70 của thế kỉ XX cho đến Ngô Doãn
Vình vào những năm đầu thế kỉ XXI.
Vùng kinh tế - xã hội là đơn vị lãnh thổ có vị trí địa lí rõ rệt, có ranh
giới xác định, trong đó chứa đựng các yếu tố tự nhiên, cơ sở vật chất- kĩ
thuật cũng như cư dân cùng các hoạt động kinh tế - xã hội của họ dưới tác
động của tiến bộ khoa học công nghệ và các dòng thông tin, vật chất với
bên ngoài, kể cả với các vùng khác và quốc tế. Nó có thể được coi là một
hệ thống kinh tế - xã hội theo lãnh thổ, bao gồm các mối liên hệ nhiều
chiều về địa lí, kĩ thuật, kinh tế, xã hội giữa các bộ phận cấu thành bên
trong hệ thống cũng như giữa nó với các hệ thống khác.
3. Đặc điểm vùng kinh tế.
3.1. Nền kinh tế của vùng đồng thời chuyên môn hóa và phát
triển tổng hợp, chuyên môn hóa và phát triển tổng hợp kết hợp
chặt chẽ với nhau.
a. Chuyên môn hóa
+ Chuyên môn hóa sản xuất đòi hỏi mỗi vùng phải căn cứ vào nhu cầu
về sản phẩm hàng hóa của nền kinh tế quốc dân (tức là nhu cầu tiêu thụ
ngoài vùng) để lấy một hay một số sản phẩm của vùng có điều kiện sản
xuất thuận lợi nhất (nhiều vùng khác không có điều kiện đó, hay nếu có thì
cũng không thuận lợi bằng) làm đối tượng sản xuất chủ yếu làm thỏa mãn
nhu cầu nêu trên.
Như vậy, hệ thống những điều kiện trội (điều kiện thuận lợi nhất)
cùng với nhu cầu về sản phẩm hàng hóa sẽ giúp người phân vùng lựa chọn
được ngành sản xuất chuyên môn hóa của vùng. Nội dung chuyên môn hóa
của vùng có thể đơn giản (có ít ngành sản xuất chuyên môn hóa), thậm chí
thuần nhất (chỉ có một ngành sản xuất chuyên môn hóa), song nền kinh tế càng
phát triển, thì nội dung chuyên môn hóa sản xuất của vùng càng phức tạp.