Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tổng quan về tổ chức apec
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC APEC
2
Khái quát chung về APEC
APEC(Asia-Pacific Economic Cooperation)_diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái
Bình Dương với mục tiêu tăng cường mối quan hệ về kinh tế và chính trị.
Các thành viên của APEC được tô màu đen đậm
Trụ sở chính Singapore
Năm thành lập 1989
Các nước thành viên 21
Ngôn ngữ sử dụng chính thức Tiếng anh
Hình thức hợp tác Diễn đàn kinh tế
Người đứng đầu_Giám đốc điều
hành
Juan Carlos Capuñay
Vị trí các nước thành viên Khu vực Châu Á-Thái bình
dương
Website chính thức http://www.APEC.org
Biểu trưng của APEC:
Biểu trưng APEC ra đời năm 1991, do Hàn Quốc khởi xướng việc thiết kế và đã nhận đưọc
sự chấp thuận của các thành viên. Biểu trưng APEC có hình dáng quả địa cầu với màu trắng,
xanh lá cây và xanh nước biển. Biểu trưng này không chỉ là biểu tượng của APEC, một khuôn
khổ hợp tác kinh tế khu vực quan trọng nhất, mà còn thể hiện những hy vọng và ước nguyện
của cả khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
3
Biểu trưng thể hiện những ý tưởng sau:
Khu vực bán cầu Thái Bình Dương là vị trí địa lý của các thành viên APEC. Màu xanh da trời
và xanh nước biển thể hiện những ước vọng của người dân Châu Á – Thái Bình Dương về
một cuộc sống thịnh vượng, mạnh khỏe, ấm no, còn màu trắng biểu tượng cho hòa bình và ổn
định
Mảng màu đậm bên lề thể hiện triển vọng tiến bộ và tăng trưởng nổi trội của khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương.
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA APEC
4
1.1.Sáng kiến của Australia về việc thành lập APEC:
Ngay từ những năm 1960, ý tưởng về liên kết kinh tế khu vực đã được một số học giả
người Nhật Bản đưa ra. Năm 1965, hai học giả người Nhật Bản Kojima và Kurimoto đã đề
nghị thành lập một "Khu vực mậu dịch tự do Thái Bình Dương" mà thành viên gồm năm nước
công nghiệp phát triển, có thể mở cửa cho một số thành viên liên kết là các nước đang phát
triển ở khu vực lòng chảo Thái Bình Dương. Sau đó, một số học giả khác như Tiến sĩ Saburo
Okita (cựu Ngoại trưởng Nhật Bản) và Tiến sĩ John Crawford (Đại học Tổng hợp Quốc gia
Ôt-xtrây-lia) đã sớm nhận thức được sự cần thiết phải xây dựng sự hợp tác có hiệu quả về
kinh tế ở khu vực. Tư tưởng này đã thúc đẩy những nỗ lực hình thành Hội đồng Hợp tác Kinh
tế Thái Bình Dương (PECC) năm 1980. Chính PECC sau này đã cùng với ASEAN đóng vai
trò quan trọng trong việc hình thành chế độ tư vấn kinh tế rộng rãi giữa các nền kinh tế trong
khu vực cũng như thúc đẩy ý tưởng thành lập APEC.
Vào cuối những năm 1980, một số quan chức chính phủ Nhật Bản, đặc biệt Bộ trưởng
Bộ Thương mại và Công nghiệp (MITI) lúc đó là Hajime Tamura, đã gợi ý thành lập một diễn
đàn hợp tác có tính chất kỹ thuật về các vấn đề kinh tế khu vực. Mỹ lúc đầu tỏ ra ít quan tâm
đến gợi ý này vì đang tập trung thúc đẩy tiến triển của vòng đàm phán U-ru-goay của GATT
và hình thành Khu vực Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), trong khi chính phủ Công Đảng
của Thủ tướng Bob Hawke ở Ôt-xtrây-lia lúc đó đã nhận thức được tầm quan trọng thiết yếu
của mối quan hệ kinh tế, thương mại với châu Á đối với Ôt-xtrây-lia nên đã kịp thời nắm bắt
và thúc đẩy ý tưởng về một diễn đàn hợp tác kinh tế.
Tháng 1 năm 1989, tại Xê-un, Hàn Quốc, Thủ tướng Bob Hawke đã nêu ý tưởng về
việc thành lập một Diễn đàn tư vấn kinh tế cấp Bộ trưởng ở châu Á - Thái Bình Dương với
mục đích phối hợp hoạt động của các chính phủ nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế ở khu vực
và hỗ trợ hệ thống thương mại đa phương. Australia, Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Thái
Lan, Philippines, Singapore, Brunei, New Zealand, Indonesia, Canada và Mỹ đã ủng hộ sáng
kiến này. Tháng 11 năm 1989, các Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế của các nước nói trên đã
họp tại Can-bê-ra, Ôt-xtrây-lia quyết định chính thức thành lập APEC.
Sau đó, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Công và Đài Loan (với tên gọi theo
tiếng Anh là Chinese Taipei) vào tháng 11 năm 1991; Mexico, Papua New Ghine tháng 11
năm 1993; Chile tháng 11 năm 1994 và tạm ngừng thời hạn xét kết nạp thành viên trong ba
năm. Đến tháng 11 năm 1998, APEC kết nạp thêm ba thành viên mới là Peru, Liên bang Nga
và Việt Nam, đồng thời quyết định tạm ngừng thời hạn xem xét kết nạp thành viên mới trong
mười năm để củng cố tổ chức.
Đến nay APEC đã có 21 nước thành viên, bao gồm cả hai khu vực kinh tế mạnh và
năng động nhất thế giới: khu vực Đông Á và khu vực Bắc Mỹ (gồm Mỹ, Ca-na-đa và Mê-hicô) với những nét đặc thù và vô cùng đa dạng về chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa. Chỉ
trong mười năm đầu tồn tại và phát triển, các nền kinh tế thành viên APEC đã đóng góp gần
70% cho sự tăng trưởng chung của nền kinh tế toàn cầu.
So với toàn thế giới, APEC có vị trí quan trọng, diện tích chiếm 46%, dân số chiếm
41,2%(với khoảng 2,5 tỷ dân), mật độ dân số bằng 89,8%, GDP chiếm 57,7%(19.000 tỷ đô la
Mỹ mỗi năm), GDP bình quân đầu người bằng 140,1%, chiếm 47% thương mại thế giới, xuất
khẩu chiếm 50,1%, xuất khẩu bình quân đầu người bằng 121,7%. Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP
đạt 19,1%, tuy thấp hơn tỷ lệ 22% của thế giới, nhưng lại có những thành viên đạt rất cao,
5
như: Singapore 196,5%; Hồng Kông; 163,3%; Malaysia 121,2%; Brunei 74,5%; Thái Lan;
67,7%; Việt Nam 59,6%; Đài Loan 53%...
Trong số 14 nền kinh tế lớn nhất thế giới có GDP lớn hơn 500 tỷ USD (Mỹ, Nhật Bản,
Đức, Anh, Pháp, Trung Quốc, Italia, Canada, Tây Ban Nha, Mexico, Hàn Quốc, Ấn Độ,
Australia, Hà Lan), thì có 7 là thành viên của APEC, trong đó có 2 nền kinh tế lớn nhất thế
giới là Mỹ, Nhật Bản. Đặc biệt, gần đây Trung Quốc với tốc độ kinh tế liên tục tăng cao và
tăng trong thời gian dài kỷ lục…
1.2. Những nhân tố dẫn đến sự ra đời của APEC
Từ cuối những năm 1970, đặc biệt là trong những năm 1980, sự tăng trưởng kinh tế
liên tục và với nhịp độ cao của châu Á mà nòng cốt là các nền kinh tế Đông Á đã thu hút sự
chú ý của cả thế giới. Tiếp theo "sự thần kỳ" của Nhật Bản, các nền kinh tế công nghiệp mới
(NIEs), ASEAN và đặc biệt là sự nổi lên của Trung Quốc đã biến châu Á thành khu vực phát
triển kinh tế năng động bậc nhất thế giới.
Từ những năm 1980, các nước châu Á luôn luôn dẫn đầu thế giới về tốc độ phát triển
kinh tế trong khi kinh tế thế giới bị suy thoái vào đầu những năm 1990. Xuất khẩu thực sự là
động lực tăng trưởng kinh tế ở các nước châu Á. Trong giai đoạn 1980-1992, xuất khẩu của
các nước châu Á tăng nhanh nhất thế giới, đạt tốc độ bình quân hàng năm trên 10%, so với 4%
của các nước châu Âu và Mỹ La-tinh và 6% của các nước công nghiệp phát triển vốn chiếm
tới 2/3 thương mại thế giới. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các nước châu Á tăng
mạnh, phần lớn từ Mỹ, Nhật Bản và các nền kinh tế NIEs. Tiềm lực lớn về xuất khẩu hàng
hoá, dịch vụ và vốn đầu tư đòi hỏi phải có thị trường ổn định, rộng mở và hạn chế đến mức tối
đa những hàng rào ngăn trở sự lưu chuyển của hàng hoá, dịch vụ, đầu tư trong khu vực. Do
đó, hợp tác và liên kết kinh tế khu vực trở thành nhu cầu cấp thiết để bảo đảm cho sự phát
triển kinh tế cao và ổn định.
Trong khi đó, xu thế toàn cầu hóa phát triển mạnh, thể hiện qua sự phân công lao động
quốc tế đan xen nhau dưới tác động của những tiến bộ của khoa học - công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin. Việc Trung Quốc cải cách và mở cửa càng làm gia tăng xu thế này ở
châu Á - Thái Bình Dương. Trong nền kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất, thương mại,
tài chính và dịch vụ ngày càng được quốc tế hóa. Cùng với toàn cầu hóa và như một sự ứng
phó với toàn cầu hoá, xu thế khu vực hóa cũng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều
sâu. Từ cuối những năm 1980, liên kết kinh tế khu vực ở châu Âu và Bắc Mỹ được đẩy mạnh
thêm một bước. Các nước thuộc Liên hiệp châu Âu đã thoả thuận lập ra một thị trường chung
vào năm 1992 và ráo riết lập kế hoạch cho một liên minh tiền tệ với một đồng tiền chung. Còn
ở Bắc Mỹ, tháng 1 năm 1989 Mỹ và Ca-na-đa chính thức ký Hiệp định thành lập Khu vực
Mậu dịch Tự do song phương (CAFTA). Trong khi đó, ở châu Á- Thái Bình Dương tuy có ổn
định tương đối về chính trị, và là một khu vực năng động và có nhịp độ tăng trưởng kinh tế
cao nhưng chưa có một hình thức liên kết nào có tính chất chính thức, liên chính phủ và toàn
khu vực để bảo đảm lợi ích của các nước trong khu vực trước sự gia tăng ngày càng mạnh của
chủ nghĩa khu vực bảo hộ ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
Từ những năm 1970 -1980, nhất là cuối những năm 1980, trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương đã thấy rõ xu thế là các nền kinh tế ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau một cách chặt
chẽ hơn về nhiều mặt. Chỉ nói riêng về thương mại, năm 1989, xuất khẩu hàng hóa của các
nước châu Á - Thái Bình Dương sang Mỹ chiếm 25,8% tổng giá trị xuất khẩu của họ, trong
6
khi đó xuất khẩu của Mỹ sang châu Á - Thái Bình Dương chiếm 30,5% tổng giá trị xuất khẩu
của Mỹ. Xuất khẩu của Nhật Bản sang các nước châu Á - Thái Bình Dương chiếm 33% tổng
kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản và giá trị xuất khẩu của châu Á - Thái Bình Dương sang
Nhật Bản chiếm 9,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước này. Xuất khẩu của Nhật Bản
sang Mỹ chiếm 34,2% giá trị xuất khẩu của Nhật Bản và xuất khẩu của Mỹ sang Nhật Bản
chiếm 12,3% tổng giá trị xuất khẩu của Mỹ. Sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế
đã tạo ra một lực gắn kết, một nhu cầu phối hợp giữa các nền kinh tế trong khu vực với nhau.
Như vậy, chính sự tăng trưởng cao liên tục và phát triển của nền kinh tế ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng như sự tuỳ thuộc lẫn
nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế đã đặt ra yêu cầu khách quan, cấp bách cho việc
hình thành một diễn đàn mở rộng trong khu vực nhằm phối hợp chính sách về các lĩnh vực
kinh tế, thúc đẩy tự do hóa và khuyến khích thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, tăng
cường hợp tác kinh tế, khoa học - công nghệ giữa các nền kinh tế ở châu Á - Thái Bình
Dương, qua đó duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bảo đảm sự phát triển bền vững của
khu vực châu Á - Thái Bình Dương khi bước vào thế kỷ XXI.
1.3.Quy chế thành viên của APEC
Việc soạn thảo qui chế thành viên của APEC được giao cho các quan chức cao cấp của
APEC thực hiện và đệ trình lên Hội nghị Bộ trưởng xem xét và Hội nghị các nhà Lãnh đạo
Cấp cao APEC thông qua vào kỳ họp hàng năm tại Van-cu-vơ, Ca-na-đa, tháng 11 năm 1997.
Về cơ bản, nước hoặc vùng lãnh thổ kinh tế, muốn trở thành thành viên APEC phải có đủ một
số điều kiện cần thiết như sau:
1- Vị trí địa lý: Nằm ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tiếp giáp với bờ biển Thái Bình
Dương.
2- Quan hệ kinh tế: Có các mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các nền kinh tế thành viên APEC
về thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự tự do đi lại của các quan
chức.
3- Tương đồng về kinh tế: Chấp nhận chính sách kinh tế mở cửa theo hướng thị trường.
4- Quan tâm và chấp thuận các mục tiêu của APEC: Tỏ rõ mối quan tâm mạnh mẽ tới các
lĩnh vực hoạt động của APEC bằng cách tham gia vào các Nhóm công tác hoặc nghiên cứu
độc lập và các hoạt động khác của APEC. Tuy nhiên, không có mối liên quan đặc biệt nào
giữa việc tham gia vào các Nhóm công tác của APEC và việc trở thành thành viên. Nước
muốn trở thành thành viên phải hoàn toàn chấp nhận những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản
được đề ra trong các Tuyên bố và Quyết định của APEC, kể cả các nguyên tắc đồng thuận và
tự nguyện.
Ngoài quy chế thành viên chính thức, APEC còn có quy chế quan sát viên dành cho ba
tổ chức khu vực là Ban Thư ký ASEAN, Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC)
và Diễn đàn Đảo Thái Bình Dương (PIF), không có quy chế quan sát viên cho một nước hay
vùng lãnh thổ riêng biệt. Quan sát viên có thể tham dự các cuộc họp từ cấp Bộ trưởng trở
xuống và tham gia vào các hoạt động của APEC. Các nước không phải thành viên APEC có
thể được tham gia các hoạt động với tư cách khách mời tại các Nhóm công tác của APEC.