Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

T
PREMIUM
Số trang
152
Kích thước
50.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1983

Tội tham ô tài sản theo luật hình sự Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các bản án,

số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, có nguồn gốc và

được trích dẫn theo đúng quy định của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí

Minh. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình

nghiên cứu khoa học nào.

Nếu có gì không đúng sự thật tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tác giả

Vương Văn Thuộc

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Bộ luật hình sự BLHS

Cảnh sát điều tra CSĐT

Cấu thành tội phạm CTTP

Hội đồng xét xử HĐXX

Tòa án nhân dân TAND

Tòa án nhân dân Tối cao TANDTC

Thành phố Hồ Chí Minh TP.HCM

Trách nhiệm hình sự TNHS

Ủy ban nhân dân UBND

Viện kiểm sát nhân dân VKSND

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1

NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN .................................................................................................6

CHƯƠNG 1......................................................................................................................................8

HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI THAM Ô TÀI SẢN.........................................8

1.1. Quy định của Luật hình sự Việt Nam về hành vi khách quan của tội tham ô tài

sản..................................................................................................................................8

1.2. Thực tiễn xác định hành vi tham ô tài sản .......................................................11

1.3. Kiến nghị hướng dẫn xác định dấu hiệu khách quan của tội tham ô tài sản....23

Kết luận chương 1 ...................................................................................................27

CHƯƠNG 2................................................................................................................................... 28

CHỦ THỂ CỦA TỘI THAM Ô TÀI SẢN........................................................................ 28

2.1. Quy định của Luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội tham ô tài sản..........28

2.2. Thực tiễn xác định dấu hiệu “người có chức vụ, quyền hạn” trong tội tham ô tài

sản................................................................................................................................31

2.3. Kiến nghị sửa đổi Bộ luật Hình sự và ban hành văn bản hướng dẫn xác định

dấu hiệu “người có chức vụ, quyền hạn” trong tội tham ô tài sản ..............................41

Kết luận chương 2 ...................................................................................................45

KẾT LUẬN ................................................................................................................................... 46

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 48

PHỤ LỤC....................................................................................................................................... 50

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tham nhũng đã và đang là vấn nạn của nhiều quốc gia trên thế giới, là

nguyên nhân làm suy yếu bộ máy Nhà nước; là căn bệnh nguy hiểm của xã hội bởi

nó hiện diện ở mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, tồn tại và phát triển không

ngừng, hàng ngày hàng giờ len lỏi vào mọi mặt của đời sống, làm phương hại đến

lợi ích của hầu hết công dân, cản trở sự phát triển bền vững của Nhà nước. Tham

nhũng vẫn đang diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với

phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt từ đó làm giảm sút

lòng tin của quần chúng nhân dân vào pháp luật và Nhà nước, là một trong nguy cơ

lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta.

Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã đạt được

những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với

những năm trước đổi mới1

. Những kết quả đạt được từ việc đổi mới hệ thống chính

trị, cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ

thống pháp luật và hội nhập quốc tế đã tạo ra tiền đề quan trọng cho việc thực hiện

mục tiêu vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân2

. Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đề ra chủ trương về phát huy sức mạnh tổng hợp

của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các cơ quan báo chí, đài truyền

hình, các doanh nghiệp và nhân dân tham gia vào công cuộc đấu tranh phòng, chống

tham nhũng. Đảng ta xem đấu tranh phòng, chống tham nhũng là sự nghiệp của toàn

dân. Quan điểm này được thể hiện rất rõ trong Văn kiện: “Nâng cao vai trò phát huy

tính tích cực, chủ động và phối hợp của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội,

nhân dân, doanh nghiệp, báo chí trong phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham

nhũng”3

.

Nhận thức được sự nguy hại của tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã ban

hành nhiều văn bản xác định mục tiêu, quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp

nhằm góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong công tác đấu tranh phòng, chống

1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật (2021), tập I, tr.25.

2

Điều 2 Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

3

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật (2021), tập II, tr.146.

2

tham nhũng, như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí4

; Văn kiện

Đại hội lần thứ XII, XIII của Đảng; Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 07/12/2015 của Bộ

Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ

việc, vụ án tham nhũng; Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018...

Trong thời gian qua nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng,

phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, xét xử nghiêm nhiều vụ

việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, xã hội quan tâm, góp phần củng cố niềm tin

trong nhân dân5

.

Do yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và tình hình tội

phạm tham nhũng nói chung, tội phạm tham ô tài sản nói riêng; một số quy định của

pháp luật về tội tham ô tài sản còn bất cập, dễ áp dụng tùy tiện…; thực tiễn áp dụng

còn một số khó khăn, vướng mắc, như xác định chủ thể và dấu hiệu khách

quan.Trong nhóm tội phạm tham nhũng, tội tham ô tài sản là một trong những tội

phạm xảy ra thường xuyên với mức độ nguy hiểm cho xã hội rất cao do hậu quả gây

ra nghiêm trọng với số tiền chiếm đoạt thường rất lớn. Trong nền kinh tế thị trường

hiện nay, kinh tế là lĩnh vực luôn tiềm ẩn khả năng tham ô tài sản rất lớn. Bởi ở đó

lợi ích vật chất được xác định là động lực thúc đẩy mạnh mẽ hành vi tham ô tài sản.

Thực tiễn cho thấy, tội phạm tham ô tài sản ngày càng gia tăng với quy mô và mức

độ phức tạp hơn. Động cơ vụ lợi đã khiến không ít cán bộ, công chức cố tạo cho

mình một đặc quyền nào đó để chiếm đoạt tài sản có trách nhiệm quản lý bằng các

thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn.

Hiện nay, tình hình tội phạm tham ô tài sản ở nước ta đang diễn ra cả ở chiều

rộng, lẫn chiều sâu và sức công phá của nó không phải chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh

tế mà cả chính trị, xã hội. Trong khi đó, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017) (sau đây viết tắt là BLHS năm 2015) đã có hiệu lực pháp luật gần 04 năm

nhưng một số quy định của pháp luật vẫn chưa được giải thích hướng dẫn cụ thể.

Mặt khác, những năm gần đây xuất hiện ngày càng nhiều vụ án tham ô tài sản có

tính chất nổi cộm, quy mô ngày càng lớn, thủ đoạn tinh vi, phức tạp và tổ chức chặt

chẽ cho thấy việc điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng nói chung và tham ô tài sản

4

Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21/8/2006 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

5

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật (2021), tập II, tr. 85.

3

nói riêng còn nhiều hạn chế chưa thật sự “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”6

như chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.

Vì lý do đó, tôi quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tội tham ô tài sản

theo luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình nhằm nghiên cứu một

cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội danh này, từ đó tìm ra những

phương hướng nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong công tác đấu tranh phòng

chống tội phạm tham ô tài sản ở nước ta trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Liên quan đến đề tài tội tham ô tài sản, gần đây đã có một số công trình

nghiên cứu, trong đó đáng chú ý như: Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thúy

tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2019 với đề tài “Tội tham ô

tài sản theo luật hình sự Việt Nam”; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Ngọc Diệp tại

Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2017 với đề tài “Tội tham ô tài sản trong pháp

luật hình sự Việt Nam”. Nội dung của hai luận văn này đã nêu khái niệm, ý nghĩa

của việc quy định tội tham ô tài sản theo luật hình sự Việt Nam; dấu hiệu định tội,

định khung, hình phạt; phân biệt tội tham ô tài sản với tội lạm dụng chức vụ, quyền

hạn chiếm đoạt tài sản và với nhóm tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; thực tiễn áp dụng các dấu hiệu định khung;

thực tiễn áp dụng quy định về hình phạt và quyết định hình phạt; quy định của Công

ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng, pháp luật của một số quốc gia trên thế

giới quy định về tội tham ô tài sản và đưa ra một số kiến nghị…Như vậy, nội dung

chính của luận văn này chủ yếu tập trung làm rõ khái niệm, ý nghĩa, việc định tội,

định khung hình phạt đánh giá thực trạng đối với tội tham ô tài sản và làm rõ tội

tham ô tài sản ở một số nước trên thế giới.

Ngoài ra, còn có một số bài viết, chuyên đề nghiên cứu trên các tạp chí

chuyên ngành liên quan đến tội phạm về tham ô tài sản:

- Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm có hành vi chiếm đoạt tài

sản khác của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 03/2021.

- Phát hiện, xử lý các vụ án tham ô tài sản: thực trạng và giải pháp khắc phục

những hạn chế, bất cập của tác giả Nguyễn Thị Hương đăng trên Tạp chí Nghiên

cứu Lập pháp số 5, tháng 3/2019.

6

Tạp chí Nội chính số tháng 8/2020, tr. 3.

4

- Bình luận tội tham ô tài sản của TS Đỗ Đức Hồng Hà, Ủy viên thường trực

Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa XIV đăng trên Tạp chí kiểm sát số 5/2018.

Nhìn chung, những đề tài, chuyên đề nghiên cứu nêu trên đã tìm hiểu khái

niệm và các yếu tố cấu thành tội phạm của tội tham ô tài sản, đánh giá thực trạng áp

dụng tội tham ô tài sản nói riêng; hoặc làm sáng tỏ quy định của luật hình sự về các

tội phạm về chức vụ và chỉ ra được một vài hạn chế trong quy định của luật về các

tội phạm này nói chung. Trên tinh thần kế thừa các thành công của các công trình

nghiên cứu trên về tội tham ô tài sản, trong Luận văn này, tác giả tổng hợp kiến

thức về dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản và phân tích, đánh giá thực tiễn áp

dụng tội phạm này ở Việt Nam.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật

hình sự về tội tham ô tài sản, tác giả chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá

trình áp dụng quy định về về tội phạm này, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn

thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt

Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau:

- Nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về dấu hiệu khách

quan và dấu hiệu chủ thể của tội tham ô tài sản;

- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về dấu hiệu khách quan và

dấu hiệu chủ thể của tội tham ô tài sản;

- Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến dấu hiệu khách quan

và dấu hiệu chủ thể của tội tham ô tài sản.

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phương pháp

nghiên cứu của đề tài

4.1. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu quy định của pháp

luật và thực tiễn áp dụng hành vi khách quan và dấu hiệu chủ thể của tội tham ô tài

sản.

- Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu các vụ án liên quan đến tội

tham ô tài sản xảy ra chủ yếu từ ngày 01/01/2018 đến tháng 9/2021. Tuy nhiên,

5

Luận văn có bình luận một số vụ án xảy ra trước năm 2018, khi quy định của BLHS

năm 1999 và BLHS năm 2015 về cùng một dấu hiệu pháp lý không thay đổi.

- Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng tội tham ô

tài sản trên phạm vi cả nước.

4.2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định của pháp luật hình sự và thực

tiễn áp dụng tội tham ô tài sản theo luật hình sự Việt Nam.

4.3. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được những mục đích đã đặt ra, trên cơ sở phép duy vật biện chứng,

duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về

xây dựng nhà nước pháp quyền, về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và

đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng nói riêng. Để phục vụ cho việc nghiên

cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân

tích, tổng hợp, phương pháp so sánh và phương pháp nghiên cứu án điển hình.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để tiến hành phân tích và

tổng hợp một cách khái quát các nội dung cần nghiên cứu trong luận văn. Qua đó,

phân tích thành từng vấn đề pháp lý liên quan về tội tham ô tài sản.

- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những điểm giống nhau và

khác nhau trong quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội tham ô tài sản với

một số tội phạm khác có liên quan, để từ đó rút ra được những ưu điểm và hạn chế

trong quy định về tội tham ô tài sản.

- Phương pháp nghiên cứu án điển hình được sử dụng để phân tích các bản

án, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng liên quan đến những vụ án tham ô

tài sản; từ đó nhận xét, đánh giá về thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS sự về

tội tham ô tài sản cũng như những vấn đề bất cập, vướng mắc.

5. Cơ cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

dung của luận văn gồm 02 chương:

Chương 1. Hành vi khách quan của tội tham ô tài sản.

Chương 2. Chủ thể của tội tham ô tài sản.

6

NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN

Theo từ điển Tiếng Việt, “tham ô” là “lợi dụng quyền hạn hoặc chức trách

để ăn cắp của công”

7

; theo đó, có thể hiểu tham ô tài sản là hành vi của người có

quyền hạn hoặc chức trách đã lợi dụng quyền hạn hoặc chức trách của mình để

chiếm đoạt của công. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, khái niệm “tham ô tài

sản” được hiểu là hành vi chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, hoặc công dân

của người có chức vụ, quyền hạn thành tài sản riêng mình8

. BLHS năm 2015 quy

định:

Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách

nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng

thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì phạm tội tham ô tài sản:

a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa

được xóa án tích mà còn vi phạm.

Như vậy, cấu thành của tội tham ô tài sản bao gồm 04 yếu tố cấu thành như

sau:

Khách thể của tội phạm

Tội tham ô là một trong những tội tham nhũng nên nó đã xâm hại đến hoạt

động đúng đắn, uy tín và hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.

Ngoài ra, tội tham ô tài sản còn xâm hại đến quyền sở hữu của Nhà nước, tổ chức

xã hội và doanh nghiệp. Đối tượng tác động của tội tham ô tài sản là tài sản của Nhà

nước, của cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và doanh nghiệp trong

và ngoài nhà nước9

. Đây là những hành vi có khả năng gây thiệt hại nhiều nhất cho

quan hệ sở hữu, làm tha hóa, biến chất đội ngũ cán bộ có trách nhiệm quản lý tài

sản, gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội10

.

Mặt khách quan của tội phạm

- Hành vi khách quan của tội tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ,

quyền hạn chiếm đoạt tài sản mình có trách nhiệm quản lý - nghĩa là lợi dụng chức

7

Hoàng Phê (chủ biên) (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bác khoa, Hà Nội, tr.1165.

8

Ts Trương Hồng Hải, Ts Nguyễn Xuân Trường (2021), thuật ngữ nội chính, PCTN và cải cách tư pháp, tr.249.

9 Ts Trần Thị Quang Vinh (2018), Ts Vũ Thị Thúy, Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh. Tr 478.

10 Trần Văn Luyện - Phùng Thế Vắc - Lê Văn Thư - Nguyễn Mai Bộ - Phạm Thanh Bình - Nguyễn Ngọc Hà - Phạm Thị Thu (2018),

Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Phần các tội phạm, NXB Công an Nhân dân, tr.768.

7

vụ quyền hạn về quản lý tài sản của Nhà nước, của tổ chức xã hội, của doanh

nghiệp mà chuyển biến trái phép tài sản của Nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp thành

tài sản của mình. Lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản mình có trách

nhiệm quản lý là đặc trưng pháp lý của tội tham ô tài sản11

.

- Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội tham ô tài sản có thể được thực hiện

dưới nhiều hình thức khác nhau như công khai, bí mật hoặc bằng thủ đoạn gian dối

như sửa đổi số liệu trong sổ sách, tạo chứng từ giả, v.v12

.

Tội tham ô tài sản có cấu thành tội phạm vật chất nên tội phạm hoàn thành

khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản.

Mặt chủ quan của tội phạm

Tội phạm được thực hiện bằng hình thức lỗi cố ý trực tiếp, động cơ tư lợi là

dấu hiệu bắt buộc của tội phạm13

.

Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội tham ô tài sản là chủ thể đặc biệt - là người có chức vụ quyền

hạn trong quản lý tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp14

.

Tội tham ô tài sản được cấu thành bởi 4 yếu tố cấu thành nêu trên. Tuy

nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật thì vấn đề khó khăn, vướng mắc thường gặp nhất

trong thời gian qua đối với tội tham ô tài sản là việc xác định dấu hiệu khách quan

và chủ thể của tội phạm. Vì vậy, trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu

hai dấu hiệu hành vi khách quan và chủ thể của tội tham ô tài sản.

11 Ts Trần Thị Quang Vinh, Ts Vũ Thị Thúy (2018), Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, Tr 478.

12 Ts Trần Thị Quang Vinh, Ts Vũ Thị Thúy (2018), Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, tr 479.

13 Trần Văn Luyện - Phùng Thế Vắc - Lê Văn Thư - Nguyễn Mai Bộ - Phạm Thanh Bình - Nguyễn Ngọc Hà - Phạm Thị Thu (2018),

Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Phần các tội phạm, NXB Công an Nhân dân, tr.768.

14 Ts Trần Thị Quang Vinh, Ts Vũ Thị Thúy (2018), Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, tr 478.

8

CHƯƠNG 1

HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI THAM Ô TÀI SẢN

1.1. Quy định của Luật hình sự Việt Nam về hành vi khách quan của tội

tham ô tài sản

Tội tham ô tài sản có cấu thành tội phạm vật chất nên mặt khách quan của tội

tham ô tài sản gồm hành vi khách quan, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành

vi và hậu quả của tội phạm. Trong nhóm tội phạm về chức vụ, dấu hiệu hành vi

khách quan là cơ sở rất quan trọng để phân biệt tội tham ô tài sản với các tội phạm

khác. Hành vi khách quan của tội tham ô tài sản là hành vi “chiếm đoạt tài sản” mà

người có chức vụ, quyền hạn có trách nhiệm quản lý15. Như vậy, đặc trưng mặt

khách quan của tội tham ô tài sản là hành vi “chiếm đoạt tài sản” bằng thủ đoạn lợi

dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có trách nhiệm quản lý. Hành vi khách quan của

tội tham ô tài sản được biểu hiện ở những dấu hiệu sau:

- Về dấu hiệu của hành vi: Trước hết, người phạm tội tham ô tài sản phải là

người có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản. Lợi

dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản là do người có chức vụ, quyền hạn

thực hiện và hành vi chiếm đoạt đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn

của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ không thể thực hiện việc

chiếm đoạt tài sản; chức vụ, quyền hạn là điều kiện để người phạm tội thực hiện

việc chiếm đoạt tài sản. Nếu người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi chiếm

đoạt tài sản mà việc thực hiện hành vi này không liên quan đến chức vụ, quyền hạn

của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn cũng không bị coi là tham ô tài sản.

Ví dụ: Nguyễn Văn A là thủ quỹ của công ty X. Do chơi hụi nên A nợ nhiều

người và mất khả năng thanh toán. A đã bàn với vợ là Đào Thị T dùng giấy tờ nhà

thế chấp cho công ty để vay 800.000.000 đồng với mục đích đầu tư nuôi tôm. Sau

khi vay được tiền, vợ chồng A đã trả cho các chủ nợ. Đến hạn không thấy vợ chồng

A trả tiền, công ty mới phát hiện bộ hồ sơ do vợ chồng A thế chấp cho công ty là

giả. Mặc dù A là người có chức vụ, quyền hạn và cũng có trách nhiệm quản lý tài

sản nhưng A đã không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản do mình

trực tiếp quản lý mà chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để giám đốc công ty tin và cho

vợ chồng A vay tiền. Chức vụ, quyền hạn của A chỉ là phương tiện để thực hiện thủ

đoạn gian dối khi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công ty.

15Ts Trần Thị Quang Vinh, Ts Vũ Thị Thúy (2018), Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, tr 478.

9

Hành vi đặc trưng trong tội phạm này là hành vi “chiếm đoạt tài sản” mà

người có chức vụ, quyền hạn có trách nhiệm quản lý. Đây là hành vi chuyển dịch

bất hợp pháp tài sản từ chủ sở hữu thành tài sản của mình hoặc của cơ quan, tổ chức

hoặc người khác16. Hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản được thực hiện thông

qua thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn với những điều kiện khác nhau như:

+ Người phạm tội lợi dụng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do mình đảm

nhiệm trong công tác để làm sai chức trách, làm trái nguyên tắc, vi phạm chế độ,

chính sách quản lý tài sản mà mình phụ trách như: chế độ thu, chi quản lý tài sản,

chứng từ, sổ sách, kế toán, tiền mặt… để chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm

quản lý. Ví dụ: thủ quỹ tự lấy tiền do mình quản lý để chi tiêu cá nhân; thủ kho tự

lấy tài sản trong kho do mình quản lý đem bán…

+ Người phạm tội có hành vi làm trái với chức trách, nhiệm vụ của mình để

chiếm đoạt tài sản.

+ Người phạm tội lợi dụng quyền quyết định của mình đối với người khác để

tác động gây ảnh hưởng đến người khác, buộc họ đưa tài sản và chiếm đoạt tài sản

đó. Ví dụ: Chủ tịch UBND xã lệnh cho thủ quỹ đơn vị đưa tiền cho mình. Đây có

thể là hành vi của người thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cũng có thể

là người được giao nhiệm vụ, công vụ có quyền tự quyết trong quá trình thực hiện

công vụ, nhiệm vụ đó.

- Về thủ đoạn: Để chiếm đoạt tài sản người có chức vụ, quyền hạn đã lợi

dụng chức vụ, quyền hạn của mình, biến công cụ, nhiệm vụ được giao như công cụ,

phương tiện, điều kiện để biến tài sản của cơ quan, tổ chức hoặc của công dân thành

tài sản của mình một cách trái pháp luật. Thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để

chiếm đoạt tài sản có biểu hiện tương tự như thủ đoạn của người phạm tội trộm cắp

tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản như: lén lút, bí mật công khai, gian dối…Chính vì đặc

điểm này mà tội tham ô tài sản được coi là trộm cắp tài sản, công nhiên chiếm đoạt

tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài tài sản của

người có chức vụ, quyền hạn đối với tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý.

16 Trần Văn Luyện - Phùng Thế Vắc - Lê Văn Thư - Nguyễn Mai Bộ - Phạm Thanh Bình - Nguyễn Ngọc Hà - Phạm Thị

Thu (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Phần các tội phạm, NXB Công

an Nhân dân, tr.769.

10

- Về dấu hiệu hậu quả: Hậu quả của tội tham ô tài sản là những thiệt hại về

vật chất hoặc phi vật chất cho cơ quan, tổ chức và cho xã hội17. Đối với tội tham ô

tài sản, thiệt hại trước hết là thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn có những thiệt hại khác

phi vật chất như gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động bình thường, đúng đắn và uy tín

của cơ quân, tổ chức.

- Thời điểm tội phạm hoàn thành: Tội tham ô tài sản là tội có cấu thành vật

chất, tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản18

.

Tuy nhiên, trên thực tế, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà cơ quan,

tổ chức giao cho người có chức vụ, quyền hạn mà có nhiều loại cán bộ có chức

năng, trách nhiệm quản lý tài sản ở mức độ khác nhau, như: thủ kho, thủ quỹ chịu

trách nhiệm quản lý trực tiếp tài sản; thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức

có trách nhiệm quản lý chung, gián tiếp đối với tài sản…Do đó, thời điểm tội phạm

hoàn thành còn căn cứ vào tính chất mối quan hệ giữa người phạm tội và tài sản bị

chiếm đoạt. Tội phạm có thể hoàn thành từ thời điểm tài sản đó bị đưa ra khỏi kho,

nơi cất giữ, hoặc từ khi người phạm tội nhận được tài sản do người khác chuyển

giao cho mình trái pháp luật…

- Phân biệt hành vi tham ô tài sản với hành vi lạm dụng chức vụ, quyền

hạn chiếm đoạt tài sản: Hành vi tham ô tài sản: Sử dụng chức vụ như một phương

tiện để biến tài sản mình quản lý thành tài sản cá nhân, như: Sử dụng quyền hạn

thực hiện không đúng chức trách hoặc làm trái chế độ quản lý tài sản; sử dụng

quyền hạn vượt quá giới hạn cho phép nhưng có liên quan đến cương vị công tác để

chiếm đoạt tài sản; tài sản chiếm đoạt là tài sản mà người phạm tội quản lý, là tài

sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Đối với hành vi lạm dụng chức

vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản: Sử dụng chức vụ, quyền hạn như một phương tiện

để làm một việc vượt ngoài trách nhiệm được giao nhằm chiếm đoạt tài sản. Có thể

là uy hiếp, lừa dối… chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản; tài sản chiếm đoạt là tài sản

của người khác, dưới sự quản lý của người khác, có thể là tài sản của Nhà nước.

Tóm lại, hành vi khách quan của tội tham ô tài sản khá phức tạp, cần có sự

kết hợp của nhiều dấu hiệu và bị coi là hành vi tham ô tài sản nếu người có chức

17 Trần Văn Luyện - Phùng Thế Vắc - Lê Văn Thư - Nguyễn Mai Bộ - Phạm Thanh Bình - Nguyễn Ngọc Hà - Phạm Thị

Thu (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Phần các tội phạm, NXB Công

an Nhân dân, tr.769.

18 Trần Văn Luyện - Phùng Thế Vắc - Lê Văn Thư - Nguyễn Mai Bộ - Phạm Thanh Bình - Nguyễn Ngọc Hà - Phạm Thị

Thu (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Phần các tội phạm, NXB Công

an Nhân dân, tr.770.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!