Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Toàn cầu hoá và những mặt trái.doc
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Toàn cầu hoá và những mặt trái
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham
gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia
chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp
tác vừa có đấu tranh, vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng vừa có những
thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia đang ở trình độ kém phát triển. Vì toàn
cầu hoá là một xu thế, một quá trình khách quan cho nên không thể đảo ngược.
1 Lời hứa của các tổ chức toàn cầu:
1.1 Lợi ích của toàn cầu hoá: thông qua thương mại quốc tế giúp các quốc gia tăng
trưởng nhanh hơn, nhiều người trên thế giới sống lâu hơn và hưởng mức sống cao hơn trước
đây, giảm đi tình trạng cô lập mà các nước đang phát triển thường gặp và tạo ra cơ hội tiếp
cận tri thức cho nhiều người ở các nước đang phát triển…
1.2 Tác hại của toàn cầu hoá: làm gia tăng tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng trong
xã hội, tự do hoá thị trường tài chính nhanh chóng trong khi chưa có các cơ chế cạnh tranh và
kiểm soát đã dẫn tới khủng hoảng tài chính châu Á (1997), việc xoá bỏ các hàng rào thương
mại để thị trường tự do cạnh tranh (không có sự điều tiết của chính phủ) đã gây thiệt hại lớn
cho các nước đang phát triển bởi hàng hoá của họ sản xuất ra không thể cạnh tranh được với
hàng hoá nước ngoài, việc nới lỏng kểm soát thị trường vốn ở Mỹ Latinh và châu Á đưa đến
sự sụp đổ của hệ thống tỉ giá và sự suy yếu của hệ thống ngân hàng, môi trường bị huỷ hoại,
tham nhũng gia tăng…
1.3 Những sai lầm của 3 tổ chức (IMF, WB, WTO) điều phối toàn cầu hoá:
1.3.1 Cơ sở hình thành IMF: IMF được thành lập trên cơ sở niềm tin thị trường
thường là không hoàn hảo nhưng nó lại quá tin vào sự hoạt động hiệu quả của thị trường tự
do và cần có áp lực quốc tế buộc các nước theo đuổi chính sách kinh tế tiền tệ -tài khoá mở
rộng nhằm kích thích nền kinh tế thì IMF lại thường chỉ chấp nhận cho vay nếu các nước
thực hiện chính sách tiền tệ -tài khóa khắc khổ (giảm thâm hụt ngân sách, tăng thuế, tăng lãi
suất) dẫn tới sự thu hẹp nền kinh tế. Từ 2 nguyên nhân trên mà từ khi thành lập đến nay các
chính sách của IMF đưa ra thường mang lại tác hại nhiều hơn là những lợi ích mà nó đem lại
cho nền kinh tế toàn cầu.
1.3.2 Những sai lầm của IMF: Thứ nhất, do quá tin vào hiệu quả của tự do hoá mà nó
thường xem nhẹ vai trò của chính phủ (luôn xem chính phủ là nguồn gốc của mọi vấn đề).
Thứ hai, mặc dù IMF và WB – 2 tổ chức được lập ra với những mục đích khác nhau (nhiệm
vụ của IMF là tập trung vào các vấn đề khủng hoảng, nhiệm vụ của WB là giải quyết các vấn
đề cơ cấu kinh tế các nước) nhưng hoạt động thì ngày càng chồng chéo lên nhau (WB chỉ
cho các nước vay khi có sự chấp thuận của IMF. Chính vì thế mà nó đã áp đặt một số điều
kiện lên các quốc gia khi các nước này cần sự giúp đỡ của nó). Thứ ba, IMF đã đi quá xa giới
hạn và khả năng của nó thay vì tập trung vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế vĩ mô. Nó
cho rằng, các vấn đề cơ cấu đều ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và do đó sẽ ảnh hưởng
tới ngân sách chính phủ hay thâm hụt thương mại. Vì vậy, nó cảm thấy mọi vấn đề đều nằm
trong quyền quản lí của mình. Thứ 4, IMF là một tổ chức công đại diện cho các nước thì nó
phải là một tổ chức độc lập và minh bạch nhưng trên thực tế các hoạt động của IMF không
những bị chi phối bởi ý chí chung của các nước G7 mà còn bởi giới tư bản thương mại, tài
chính ở nước đó. Thứ 5 là sự thiếu minh bạch – dân chủ trong việc thảo luận về các chiến
lược giải pháp của tổ chức này cho các quốc gia đang phát triển.
Như vậy, trong suốt nửa thế kỉ kể từ khi thành lập đến nay, IMF gần như đã thất bại
trong sứ mệnh của nó. Lẽ ra, khi các nước gặp khó khăn về kinh tế thì nó phải trợ giúp tài
1
Toàn cầu hoá và những mặt trái
chính cho các nước này phục hồi trạng thái gần toàn dụng lao động thì nó lại không thực
hiện. Điều này đã dẫn tới khủng hoảng kinh tế nổ ra ngày càng nhiều và ngày càng khốc liệt.
Tồi tệ hơn, những chính sách mà IMF áp đặt, đặc biệt là tự do hoá thị trường tài chính quá
sớm đã đưa đến sự bất ổn định toàn cầu và khi một nước bị khủng hoảng thì các trợ giúp của
các chương trình IMF lại càng làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn, đặc biệt là người nghèo.
1.3.3 Thoả thuận Bretton Woods: đã kêu gọi thành lập một tổ chức kinh tế quốc tế thứ
3, WTO, để kiểm soát quan hệ thương mại quốc tế không những nhằm hạn chế việc các nước
tăng thuế nhập khẩu bảo vệ nền kinh tế nội địa gây ra sự tràn lan của suy thoái kinh tế mà
còn thúc đẩy sự lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ và tạo ra một diễn đàn để đảm bảo đàm
phán thương mại được diễn ra và những thoả thuận được thực hiện. Như vậy, những ý tưởng
và dự định đằng sau sự hình thành của các tổ chức quốc tế đều là tốt đẹp, nhưng dần qua thời
gian đã bị biến dạng thành những thứ khác nhau. Những định hướng hoạt động của IMF,
nhấn mạnh đến sự thất bại của thị trường và vai trò của chính phủ trong việc tạo việc làm đã
bị thay thế bởi tư tưởng thị trường tự do. Tư tưởng này, chính là một phần của đồng thuận
Washington- một sự đồng thuận giữa IMF, WB, Bộ tài chính Mỹ về "các chính sách đúng"
cho các nước phát triển.
1.3.4 Những hạn chế căn bản trong đồng thuận Washington: thứ nhất là khá nhiều ý
tưởng trong sự đồng thuận mới này được hình thành trong quá trình đối phó với những vấn
đề của Mỹ Latinh, nơi các chính phủ thường mất kiểm soát chi tiêu ngân sách trong khi lại
thực thi nới lỏng tiền tệ và hậu quả là lạm phát lại được áp dụng cho những nước mà nền
kinh tế có cấu trúc, thế mạnh, điểm yếu hoàn toàn khác. Thứ hai, những chính sách như tự do
hoá thị trường vốn được đẩy mạnh trên khắp các nước Mỹ Latinh góp phần tạo ra những bất
ổn định thì những chính sách này vẫn được thúc đẩy ở nơi khác. Thứ ba, các chính sách được
đưa ra không hề phù hợp với những nước trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển hay
chuyển đổi kinh tế như việc bắt một nước đang phát triển mở cửa thị trường cho hàng hoá
nhập khẩu cạnh tranh với sản phẩm của các ngành công nghiệp nội địa còn non nớt và dễ bị
tổn thương đã gây ra những hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng. Hay việc yêu cầu các nước
phát triển phải thắt chặt chính sách tiền tệ đẩy lãi suất lên cao trong khi mạng lưới an sinh xã
hội chưa hình thành đã dẫn đến những người mất việc bị đẩy vào cảnh nghèo đói túng quẫn.
Hay việc bắt các nước đang phát triển với hệ thống ngân hàng vừa chỉ mới phát triển phải đối
mặt với những rủi ro khi mở cửa thị trường đã làm cho các nước này không thể kiểm soát
được dòng chu chuyển vốn khi mà sự lưu chuyển tiền vào và ra ở các nước này diễn ra với
tần suất quá lớn. Thêm vào đó, chính sách thắt lưng buộc bụng đã không làm tăng trưởng
kinh tế các nước như đã hứa hẹn mà còn là nguyên nhân cản trở tăng trưởng, gia tăng nghèo
đói. Tuy nhiên, một số cải cách kiểu thị trường tự do của IMF cũng có đem lại thành công
cho một số nước như Chile chẳng hạn nhưng phần còn lại của lục địa này vẫn còn phải tiếp
tục bù lại một thập kỉ đã mất mát. Thậm chí, ngay cả khi những nước này đã đẩy lùi được
lạm phát thì tình trạng thất nghiệp cao kinh niên vẫn còn. Thêm vào đó, tại các quốc gia có
được một chút tăng trưởng ta cũng thấy rõ là lợi ích chỉ tập trung vào trong tay những người
giàu và đặc biệt là tầng lớp cực giàu trong khi nghèo đói vẫn hoành hành.
1.3.5 Vấn đề người đại diện trong IMF: những người đứng đầu trong IMF và bộ tài
chính Mỹ thường xuất thân từ các công ty tài chính và sau khi kết thúc nhiệm kì trong chính
phủ họ lại trở về nơi đó làm việc. Điều này đã cho thấy, những cá nhân này đương nhiên sẽ
nhìn thế giới bằng con mắt của cộng đồng tài chính và những quyết định của các tổ chức này
luôn luôn phản ảnh quan điểm và lợi ích của những người ra quyết định.
2