Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

toàn cầu hoá và mối quan hệ với khu vực hoá
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
LỜI NÓI ĐẦU
Ở những thập niên trước, nhiều quốc gia tìm cách bảo vệ nền kinh tế trong nước chống lại các lực lượng bên
ngoài và hạn chế thặng dư chạy ra ngoài bằng những động thái mang tính chất quốc gia chủ nghĩa về kinh tế
như quốc hữu hoá những ngành công nghiệp then chốt, ban hành những sắc luật bản xứ hoá, yêu cầu sát nhập
vào kinh tế địa phương một phần tư bản nước ngoài... Một số quốc gia như Trung Quốc (thời Mao Trạch
Đông), Mianmar và Tazania... luôn nhấn mạnh và nhắc nhở rằng tự lực cánh sinh là một biện pháp để thoát ra
khỏi ảnh hưởng của hệ thống thế giới. Nhưng đến thập niên 90, mọi việc đã đổi khác, không còn ai ca ngợi
những chiến lược kinh tế quốc gia chủ nghĩa hay cách ly chủ nghĩa nữa, bởi lẽ những làn sóng “xuyên biên
giới” đã lan tràn địa cầu và thẩm thấu vào từng quốc gia. Làn sóng này được biết đến rộng rãi với thuật ngữ
“toàn cầu hoá”. Thật vậy, toàn cầu hoá đã trở thành khẩu hiểu của những năm 90 và thường xuyên được bàn
luận sôi nổi trên các báo và tạp chí gần đây. Đây là vấn đề hết sức quan trọng đã làm phát sinh những ý kiến
và lập luận trái ngược nhau. Cho nên, cần phải nắm được bản chất của vấn đề này để từ đó có thể hiểu được
tình hình kinh tế - chính trị quốc tế. Là một sinh viên chuyên ngành kinh tế, tôi không có tham vọng phân tích
sâu vấn đề này ở mọi khía cạnh, mọi lĩnh vực mà chỉ xin được tập trung vào khía cạnh kinh tế để thấy được
quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra như thế nào ?
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TOÀN CẦU HOÁ.
I- TOÀN CẦU HOÁ VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI KHU VỰC HOÁ.
1- Thế nào là toàn cầu hoá ?
Trong suốt thập niên 90, toàn cầu hoá đã diễn ra mạnh mẽ. Quá trình này thể hiện ở nhiều mặt như: sự tổ chức
lại không gian sản xuất, sự xâm nhập lẫn nhau giữa các nền công nghiệp xuyên biên giới, việc mở rộng các thị
trường tài chính, việc nới lỏng các hàng rào mậu dịch, sự lan tràn của các “dòng chẩy” vốn, những làn sóng di
cư ồ ạt qua lại giữa biên giới các nước gây ra xung đột giữa những người nhập cư với những người bản xứ.
Như vậy, có thể thấy “toàn cầu hoá” là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản hiện đại vì chỉ ở những nước tư bản
phát triển mới có tiềm lực kinh tế đủ mạnh và nền kinh tế thị trường đủ “tự do để thực hiện các quá trình trên.
Tuy nhiên, do sự thống trị của thế giới tư bản chủ nghĩa trên trường quốc tế “toàn cầu hoá” đã phát triển thành
xu hướng chung của nền kinh tế thế giới.
Khái niệm toàn cầu hoá đã trở thành một đề tài bao gồm những hiện tượng đa dạng được phân tích trên nhiều
phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá và ý thức hệ. Do đó đến nay đã xuất hiện nhiều định nghĩa khác nhau
về toàn cầu hoá, có thể kể đến như:
Toàn cầu hoá là sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các quốc gia thông qua trao đổi và dòng chảy trên
lĩnh vực kinh tế, xã hội văn hoá.
Toàn cầu hoá là sự quy tụ những quá trình xuyên quốc gia khác nhau với những cấu trúc từng nước khác
nhau, làm cho kinh tế, chính trị, văn hoá và tư tưởng của nước này thâm nhập được vào nước khác.
Toàn cầu hoá là quá trình không ngừng chuyển hoá những vấn đề kinh tế - xã hội - chính trị - của các quốc gia
độc lập thành một thể thống nhất có mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau trên phạm vi toàn cầu.
Các định nghĩa trên xem ra đều hợp lý và phản ánh đúng bản chất của quá trình toàn cầu hoá: xoá bỏ biên giới
giữa các nền kinh tế đơn lẻ thành một thực thể kinh tế thống nhất. Tuy nhiên, thuật ngữ này nhiều khi được sử
dụng hẹp hơn để mô tả một môi trường thị trường toàn cầu đã được việc tự do hoá thương mại và đầu tư trên
toàn thế giới thúc đẩy và đã thực hiện được do thông tin, giao thông vận tải đã tiến bộ về tốc độ và tính hiệu
quả. Đó là những gì mà tôi muốn đề cập - toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới.
2-/ Mối quan hệ giữa toàn cầu hoá và khu vực hoá ra sao ?
Khi nghiên cứu về toàn cầu hoá, người ta hay đặt nó trong mối quan hệ với khu vực hoá. Hai hiện tượng quan
trọng này xảy ra song song trong nền kinh tế thế giới hiện nay và gây ra những mối tranh cãi lớn? Quan hệ
giữa hai hiện tượng này là như thế nào đây? Đối lập hay thống nhất? Có cần bác bỏ một trong hai hiện tượng
này hay ủng hộ cả hai? Vẫn chưa có kết luận thống nhất.
Quan điểm thứ nhất đưa ra cho mối quan hệ này là: khuc vực hoá là một xu thế đối lập với toàn cầu hoá, có
một loại các tác động phá hoại và cản trở toàn cầu hoá kinh tế, là hòn đá cản đường toàn cầu hoá. Quan điểm
này dựa trên những căn cứ:
Thứ nhất, chủ nghĩa khu vực có tác dụng phá hoại ghê gớm tự do hoá mậu dịch toàn cầu. Nó làm yếu sức hấp
dẫn của việc xây dựng thể chế mậu dịch nhiều bên trên thế giới. Thái độ khó thoả hiệp của EU và Mỹ về vấn
đề chuối và thịt bò những tháng vừa qua có thể minh chứng cho điều này.
Thứ hai, hoạt động của khối kinh tế khu vực hoàn toàn không phải theo lối mở ngỏ. Chẳng hạn, trong Hiệp
định mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) có quy định rõ ràng về việc gạt bỏ bên thứ ba, đặc biệt có yêu cầu
nghiêm khắc đối với nơi sản xuất sản phẩm. Ngoài ra các biện pháp của EU về thống nhất bán phá giá và việc