Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tình hình nuôi cá tra ở việt nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Vo hong nguyen DHO8NT
TÌNH HÌNH NUÔI CÁ TRA Ở VIỆT NAM
Cá tra là tên gọi một họ, một chi và một số loài cá nước ngọt. Ở Việt Nam, cá tra sống chủ
yếu trong lưu vực sông Cửu Long và lưu vực các sông lớn cực nam, có thân dẹp, da trơn,
có râu ngắn.
Cá tra thuộc họ Pangasiidae. Họ Pangasiidae (họ cá tra) theo ITIS và Wikipedia tiếng
Pháp[ cần dẫn nguồn]
có 3 chi: chi Sinopangasius (1 loài), chi Helicophagus (3 loài) và chi
Pangasius (27 loài). Tuy nhiên, chi và loài Sinopangasius, theo vài tài liệu như FishBase
và một số bảng từ đồng nghĩa, được coi là từ đồng nghĩa của Pangasius kempfi (cá bông
lau). Ngoài ra trong chi Pangasius, trong 2 bảng phân loại khoa học nêu trên có 3 cặp tên
đồng nghĩa. Như vậy, có thể kể họ Pangasiidae có 2 chi và chi Pangasius có 24 loài.
Cá tra (theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1977) là loài cá nước ngọt,
không vảy, giống cá trê nhưng không ngạnh.
Sự so sánh giữa cá tra và cá trê càng thêm tối nghĩa vì hai nhóm cá này có nhiều điểm khác
biệt. Ngoài ra trong phân loại khoa học chúng thuộc hai họ khác nhau là Pangasiidae và
Clariidae.
KHÁI QUÁT CHUNG
Trong vài năm trở lại đây, phong trào nuôi cá tra xuất khẩu ở DBSCL tăng rất nhanh, đem
về cho đất nước một nguồn ngoại tệ rất lớn. Thế nhưng, do phát triển quá nhanh không
theo quy hoạch nên bệnh trên cá tra nuôi hiện nay xảy ra ngày càng nhiều nhưng việc điều
trị lại kém hiệu quả đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của người nuôi cá và cả các nhà
chuyên môn.
Qua thực tế sản xuất, cần một số giải pháp nhằm hạn chế tình hình dịch bệnh hiện nay.
Con giống: Trước đây giống cá tra nuôi là nguồn giống tự nhiên kết hợp với môi trường
nuôi còn tốt nên cá có sức sống cao và bệnh trên cá nuôi trong thời gian này rất ít khi xảy
ra. Tuy nhiên, từ năm 1999 thì việc sản xuất giống nhân tạo cá tra phát triển, sản lượng
giống nhân tạo ngày một tăng nhanh để đáp ứng nhu cầu người nuôi, nhưng mặt trái của sự
gia tăng sản lượng giống là chất lượng giống ngày càng suy giảm do đa số các trại giống
đều chưa có lý lịch cá bố mẹ, tuyển chọn cá bố mẹ từ các ao nuôi cùng đàn có thể gây nên
hiện tượng đồng huyết từ đó cá bột nở ra có sức sống kém hơn nhiều so với cá bột khai
thác từ tự nhiên.
Chính vì vậy, để con giống cá tra đảm bảo chất lượng (có giấy chứng nhận của cơ quan
quản lý khi xuất bán) cung cấp cho người nuôi, các ngành chức năng cần tăng cường kiểm
soát chất lượng tại các cơ sở sản xuất cá giống, đảm bảo trại sản xuất giống đạt tiêu chuẩn
ngành mới được hành nghề và kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm, và điều quan
trọng là lương tâm trách nhiệm của người làm giống.
Môi trường: Hầu hết các trại nuôi cá đều không dành diện tích làm ao xử lý nước mà nước
ao nuôi được thải trực tiếp ra sông rạch và nước cấp vào ao cũng lại lấy trực tiếp từ sông
rạch nên việc lây nhiễm bệnh rất cao. Nguyên nhân nguồn nước nuôi cá tra có dấu hiệu ô
nhiễm cao có thể là:
+ Hai bờ sông Hậu và sông Tiền có nhiều khu công nghiệp xen lẫn với các trang trại nuôi
cá tra. Nước thải các khu công nghiệp chưa qua xử lý mà thải trực tiếp ra sông rạch là mối
nguy lớn do nước chứa nhiều hóa chất độc và kim loại nặng. Các ngành có liên quan nên
có những biện pháp kỹ thuật xử lý nước thải áp dụng thích hợp cho các nhà máy sản xuất
đó và xử lý nghiêm những trường hợp xả nước thải trực tiếp ra môi trường của các nhà
máy ở khu công nghiệp vì công việc này trước nay thực hiện chưa được tốt, có như vậy
mới góp phần làm cho môi trường được trong sạch nếu không sẽ tạo ra những dòng sông
chết rất khó khắc phục.
+ Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật từ ruộng, vườn chảy ra sông rạch sau những trận mưa
cũng là nguồn ô nhiễm nguy hiểm. Hướng tới các ngành chuyên môn có liên quan cần
nghiên cứu những quy trình kỹ thuật theo hướng “sạch” và hướng dẫn cho mọi người nông
dân áp dụng vào quy trình sản xuất của mình nhằm đảm bảo được môi trường và sản phẩm
“sạch” cho con người.
+ Thải trực tiếp nước ao nuôi cá, bùn đáy ao, nước sinh hoạt từ các khu dân cư không được
xử lý ra môi trường chung cũng góp phần làm nước sông ô nhiễm hữu cơ tăng cao, làm
hàm lượng oxy trong nước giảm, các khí CO2, H2S… tăng lên. Ngoài ra việc xả nước từ
các ao cá bệnh, vứt cá chết bừa bãi ra nguồn nước hay tận dụng cá bệnh làm thức ăn cho cá
trê, cá lóc đã làm bệnh phát triển thêm trên phạm vi rộng. Các hộ nuôi nên có kế hoạch xây
dựng ao lắng và ao xử lý nước thải, từng bước áp dụng các quy trình kỹ thuật mới (SQF,
GAP…).
Môi trường nuôi ngày càng biểu hiện xấu kết hợp với việc nuôi cá tra phát triển nhanh mà
không theo quy hoạch (lượng chất hữu cơ thải trực tiếp ra môi trường là rất lớn so với nuôi
các đối tượng thủy sản khác) nên cá nuôi ngày càng phải chịu đựng với điều kiện môi
trường sống khắc nghiệt, dễ bệnh hơn trước rất nhiều lần. Chính vì vậy, hiện nay người
nuôi phải thực hiện việc phát triển nuôi thân thiện với môi trường làm sao không làm thay
đổi môi trường mà làm môi trường tốt hơn bằng các biện pháp như áp dụng quy trình kỹ
thuật nuôi tiên tiến: nuôi trong vùng quy hoạch, có ao xử lý nước, sử dụng hóa chất, kháng
sinh hợp lý.
Mật độ nuôi cao hơn khuyến cáo kỹ thuật rất nhiều (50-80 con/m2) có những bất lợi
nghiêm trọng như:
+ Cá nuôi luôn ở trong tình trạng stress liên tục mà đó là nhân tố tác động đến sự bộc phát
bệnh và gây chết cá.
+ Việc thiếu oxy gây cho cá luôn trong tình trạng sức khỏe yếu. Khi oxy thấp cá phải trồi
lên mặt nước đớp khí liên tục để lấy oxy và sự vận động liên tục làm tiêu hao năng lượng
và dễ nhiễm ngoại ký sinh ở mang.
+ Làm tăng lượng mùn bã hữu cơ do thức ăn dư thừa và chất thải của cá từ đó làm nước
luôn trong tình trạng giàu dinh dưỡng. Khí NH3, tiêu hao oxy hóa học (COD), tiêu hao oxy
sinh học (BOD) cao và oxy luôn thấp nên người nuôi phải thay nước liên tục để loại bớt
độc chất, tăng oxy và qua đó góp phần đưa mầm bệnh và nguồn nước xấu từ ngoài vào ao
nuôi (nhất là đối với trường hợp lấy nước trực tiếp ngoài môi trường).
+ Làm cạnh tranh không gian sống dẫn đến cá phân đàn cao, cá yếu và cá nhỏ luôn bị cá
khỏe chen lấn, cạnh tranh thức ăn, cạnh tranh không gian sống nên phải dạt vào bờ và
nhóm cá này ngày càng yếu và dễ bệnh hơn do chất lượng nước gần bờ xấu, nhiều rong tảo
và thiếu thức ăn.
Từ những bất lợi của việc nuôi mật độ cao như trên, người nuôi phải nhìn nhận rõ một thực
tế là nuôi mật độ cao chưa chắc có hiệu quả cao bằng nuôi mật độ vừa phải như khuyến
cáo kỹ thuật và điều quan trọng là nó không mang được tính bền vững trong nghề nuôi cá
tra.
Từ các yếu tố được đề cập cho thấy con giống suy thoái kết hợp mật độ nuôi cao và môi
trường nước ngày càng ô nhiễm là nguyên nhân làm cho bệnh trên cá tra nuôi xảy ra nhiều
hơn trong giai đoạn hiện nay. Nếu tất cả những người nuôi đều đồng lòng biết được những
nguyên nhân trên và tìm hướng khắc phục những nguyên nhân đó thì nghề nuôi cá tra sẽ
phát triển bền vững.
Sản lượng cá tra, basa sẽ giảm 50%
Theo nhận định của nhiều chuyên gia ngành Thuỷ sản, sản lượng cá tra, basa quí 2 năm
nay giảm tới một nửa do nông dân thiếu vốn sản xuất.
Hiện nay, cả nước có 100 nhà máy chế biến cá có công suất 1 triệu rưỡi tấn sản phẩm mỗi
năm và có khả năng năm nay chỉ sử dụng được một phần ba công suất. Để khắc phục khó
khăn, vướng mắc trong tổ chức sản xuất nuôi, chế biến, tiêu thụ cá tra và tôm nước lợ vùng
đồng bằng sông Cửu Long năm nay, Cục Nuôi trồng Thuỷ sản, đang chuẩn bị tổ chức Hội
nghị "Bàn giải pháp phát triển và tiêu thụ cá tra, tôm nước lợ vùng đồng bằng sông Cửu
Long năm 2009" vào ngày 12/2 tới tại thành phố Cần Thơ, nhằm rà soát và tháo gỡ những
khó khăn vướng mắc để phát triển sản xuất và tiêu thụ tôm, cá tra./.
ĐBSCL: diện tích nuôi cá tra giảm
TTO - Theo Cục Nuôi trồng thuỷ sản - Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn, đến cuối
năm 2008 diện tích nuôi cá tra toàn vùng ĐBSCL chỉ còn 5.240ha, giảm so với tháng 5-
2008 là 600ha.
Tuy nhiên, điều đáng ngại là hiện nay ngoài số lượng cá tra giảm diện tích nuôi, một số hộ
nuôi cá tra còn áp dụng hình thức thả cá mật độ thưa theo hình thức nuôi cầm chừng, chờ
thời, vì hiện nay giá thức ăn thủy sản dùng cho nuôi cá tra vẫn còn đứng ở mức cao, trong
khi đó phần lớn hộ nuôi bị khánh kiệt do ảnh hưởng cá tra rớt giá liên tục trong năm 2008.
Nhiều tỉnh nuôi cá tra sản lượng lớn như An Giang, Đồng Tháp… nông dân "treo" ao đến
khoảng 30% do không tiếp cận nguồn vốn sản xuất và không ký được hợp đồng bao tiêu
sản phẩm với doanh nghiệp.
Theo Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn, năm 2008 đạt 1.128.000 tấn, năm 2009 dự
kiến sản lượng đạt 1.200.000 tấn. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn Vũ