Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tình hình biến đổi dân số ở Việt Nam thời gian qua
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Tình hình biến đổi dân số ở Việt Nam thời gian qua
Chuyên đề: Nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí số: Tạp chí Số 20 (Số 436)
Năm xuất bản: 2008
Sau 15 năm (1993-2008) thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII về chính sách dân số- kế hoạch hoá gia đình,
tình hình dân số nước ta đã có những thay đổi căn bản. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2006, Việt Nam có khoảng
84.155.800; năm 2008 con số đó không dưới 86 triệu, là nước đông dân thứ 13 thế giới. Tuy nhiên, cùng với xu
hướng biến động của dân số thế giới, dân số Việt Nam cũng đang chịu những tác động lớn trong thay đổi về mức
sinh, mức chết, tình trạng già hoá và vấn đề di cư...
Mức sinh, mức chết giảm nhưng có sự khác nhau giữa các vùng
Để đo lường mức sinh, người ta dùng nhiều chỉ tiêu, thông thường nhất là “tỷ suất sinh thô”, tỷ suất
này biểu thị số trẻ được sinh ra trong 1 năm, tính trung bình trên 1.000 dân. Tỷ suất sinh thô của Việt
Nam năm 1957 là 44%0. Sau 50 năm đẩy mạnh kế hoạch hoá gia đình, tỷ suất này giảm xuống còn
17,2%0 năm 2007. Tuy “tỷ suất sinh thô” giảm nhiều so với dân số lớn nên số trẻ em sinh ra trong một
năm hiện nay vẫn tới khoảng 1,5 triệu em. Tỷ suất sinh thô ở Việt Nam giai đoạn 1998-2007 có chiều
hướng giảm, song giữa các năm có sự biến động: Năm 1999 tỷ suất sinh thô là 19,9; đến năm 2001
còn 18,6; tuy nhiên đến năm 2002 tỷ suất sinh thô lại tăng lên 19; năm 2003 giảm xuống 17,5; năm
2004 tăng lên 19,2; năm 2005 giảm xuống 18,6 và đến năm 2007 còn 17,2.
Bên cạnh đó, mức sinh rất khác nhau giữa các vùng trong cả nước. Tổng tỷ suất sinh ở Tây Nguyên
(3,1 con) cao hơn rất nhiều ở miền Đông Nam bộ (1,7 con). Sự chênh lệch giữa các tỉnh còn lớn hơn:
từ 1,5 con ở thành phố Hồ Chí Minh đến 3,9 con ở Kon Tum. Mặt khác, mức sinh cũng có sự khác
nhau giữa thành thị và nông thôn nhưng không lớn: 2,3 con và 1,7 con.
Kết quả điều tra tại 3.840 địa bàn mẫu được chọn ngẫu nhiên trong cả nước cho thấy, mức sinh đã đạt
ngưỡng thay thế ứng với tổng tỷ suất sinh là 2,1 con. Mức sinh này thấp hơn nhiều so với mức chung
của các nước Đông Nam Á (2,7 con) và hiện chỉ cao hơn Singapore (1,3 con) và của Thái Lan (1,7
con).
Đối với dân số cả nước, mức độ sinh cao nhất là 137%0 thuộc độ tuổi 20-24, sau đó mức sinh chỉ giảm
đôi chút, xuống 130%0 ở độ tuổi 30-34. Sau độ tuổi này, mức sinh giảm rất nhanh theo độ tuổi, chỉ còn
78%0 ở nhóm tuổi 30-34, 36%0 ở nhóm tuổi 35-39. Tại nhóm tuổi cao nhất, mức độ sinh không đáng
kể, chỉ có 1%0.
Các kết quả điều tra khác cũng chỉ ra rằng mức sinh nước ta tiếp tục giảm, song giảm chậm và dao