Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tìm về cội nguồn quan họ
PREMIUM
Số trang
229
Kích thước
1.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1511

Tìm về cội nguồn quan họ

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

Liªn hiÖp c¸c héi khoa häc vµ kü thuËt viÖt nam

Trung t©m nghiªn cøu b¶o tån vµ ph¸t huy v¨n hãa d©n téc

_______________________________________

C«ng tr×nh nghiªn cøu

T×m vÒ

céi nguån quan hä

Chñ nhiÖm

GS Hoµng Ch−¬ng

Nhãm nghiªn cøu

NNC NguyÔn ThÕ Khoa

PGS.TS §Æng ViÖt BÝch

TS Ph¹m ViÖt Long

NS D−¬ng §×nh Minh S¬n

TS §oµn ThÞ T×nh

NS NguyÔn Thanh Ng©n

NNC Lý Kh¾c Cung

6624

09/11/2007

2

“...Khi một bài hát quan họ được biểu diễn, tôi cảm như

đã được thấy những nhạc sĩ thiên tài và nhà thơ xuất sắc

của đất Kinh Bắc...Những nhạc sĩ và nhà thơ dân gian ấy

có phải đâu xa lạ với chúng ta. Chính là các cụ ông, cụ

bà ở vùng Tiên Du, Quế Dương, Võ Giàng thời xưa, các

cụ tổ tiên của chúng ta...” .

Vũ Ngọc Phan

Nếu đời còn có đời sau

Tôi xin trở lại hát câu tâm tình

Theo làn quan họ Bắc Ninh

Với người quan họ kết tình anh em.

Huy Cận

3

Phần mở đầu

LỊCH SỬ VÀ MỤC TIÊU ĐỀ TÀI

Quan họ là một hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian, diễn xướng dân

gian độc đáo, hấp dẫn, có giá trị nhân văn, giá trị nghệ thuật to lớn và có sức

sống lâu bền bậc nhất trong lịch sử văn hoá Việt Nam, ra đời, phát triển và

đạt đến đỉnh cao tại các làng quê xứ Kinh Bắc xưa, nay thuộc hai tỉnh Bắc

Ninh và Bắc Giang.

Là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, diễn xướng dân gian,

quan họ là một tổng thể do nhiều yếu tố văn hóa nghệ thuật dân gian xứ

Kinh Bắc hợp thành qua một quá trình lịch sử lâu dài. Nó là một chỉnh thể

văn hoá nghệ thuật gắn bó sâu sắc với thiên nhiên, con người, với văn hóa,

văn minh làng xã, thu hút và biểu hiện những ước mơ, những nguyện vọng,

những khát vọng, thể hiện quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con

người nơi đây.

Theo chiều dài lịch sử, sinh hoạt văn hoá quan họ đã sáng tạo, dung

nạp, chuyển hóa, sinh thành, đào thải...trong quá trình giao lưu và tiếp biến

văn hoá với các hình thức sinh hoạt văn hoá khác ở địa phương, ở trong

nước và các nước láng giềng để thích nghi, đáp ứng những nhu cầu phát

triển qua từng thời đại, nên giá trị nội dung, nghệ thuật của sinh hoạt văn hoá

quan họ giàu có, phức tạp, đa diện, phát triển và biến hoá không ngừng.

Sáng tạo sinh hoạt văn hóa quan họ, với những phong tục, lề lối in

đậm truyền thống nhân văn dân tộc, với những làn điệu và lời ca tài hoa, độc

đáo, duyên dáng, tinh tế, người Kinh Bắc đã cho thấy một đời sống tinh thần

vô cùng phong phú, rộng mở và một khả năng sáng tạo, thưởng thức văn hoá

4

nghệ thuật ở trình độ cao từ xa xưa. Nói như nhà nghiên văn hoá dân gian

tiền bối Vũ Ngọc Phan thì dân ca quan họ đã cho thấy các làng quê xứ Kinh

Bắc có thể sản sinh ra “những nhạc sĩ dân gian thiên tài” và “những nhà

thơ dân gian xuất chúng” như thế nào.

Quan họ đã trở thành một đặc sản văn hoá đầy tự hào của người dân

Kinh Bắc, một biểu hiện rực rỡ của truyền thống văn hoá văn minh và nghệ

thuật Việt Nam.

Việc sưu tầm nghiên cứu, giới thiệu quan họ như một sinh hoạt dân ca

độc đáo, tiêu biểu của dân tộc đã được một số nhà nghiên cứu văn hoá, học

giả nước ta khởi xướng từ trước cách mạng tháng Tám. Bắt đầu là tác giả

Chu Ngọc Chi với công trình sưu tầm giới thiệu “Hát quan họ” (Nhà xuất

bản Phú Hiệp Sài Gòn, 1928). Tiếp theo là Nguyễn Văn Huyên với luận văn

tiến sĩ tại đại học Sorbone, Pari, năm 1934, có tên gọi “Hát đối đáp nam nữ

thanh niên”. Sau đó là một số bài du ký, tiểu luận in trên báo chí đương thời

của các tác giả như Vũ Bằng, Nguyễn Duy Kiện, Việt Sinh, Minh Trúc,

Mạnh Quỳnh, Toan Ánh...và dân ca quan họ đã được giới thiệu trong sách

“Việt Nam văn học sử yếu” của học giả Dương Quảng Hàm.

Tuy vậy, theo GSTS Trần Văn Khê, những công trình nhỏ lẻ giai đoạn

này chưa được mấy người biết tới. Bản thân Trần Văn Khê cho tới đầu 1950

vẫn chưa hình dung ra dân ca quan họ là thế nào.

Trong kháng chiến chống Pháp, việc sưu tầm, nghiên cứu, chỉnh lý,

phục hồi dân ca quan họ đã được tiến hành giữa khói lửa chiến tranh ngay

tại chiến khu Việt Bắc và mười bài quan họ đã có mặt và được hoan nghênh

nồng nhiệt trong chương trình biểu diễn chào mừng chiến thắng lịch sử Điện

Biên Phủ của Đoàn Văn công Quân đội. Sau đó, nhiều tiết mục dân ca quan

họ đã xuất hiện và gây chú ý lớn tại Đại hội Văn công toàn quốc lần thứ nhất

năm 1954 cũng như được các nghệ sĩ Việt Nam đưa đi trình diễn tại các

5

Liên hoan thanh niên sinh viên thế giới và được dư luận bạn bè quốc tế đánh

giá rất cao.

Sự chinh phục hiển nhiên, ngoạn mục của âm nhạc và lời ca quan họ

trên các sân khấu trong nước và thế giới đã tạo ra cả một phong trào sưu

tầm, nghiên cứu, phục hồi dân ca quan họ từ sau 1954 trên miền Bắc XHCN.

Các nhạc sĩ Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Lê Yên, Lê Huy, Nguyễn Đình Phúc,

Nguyễn Đình Tấn, Tử Phác, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc, Lưu Khâm, Hồng

Thao. Nguyễn Trọng Anh, Hữu Thu...các nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, Lê

Thị Nhâm Tuyết, Lê Văn Hảo, Nguyễn Địch Dũng, Lê Trung Vũ, Lê Hồng

Dương, Đặng Văn Lung, Trần Linh Quý, Lê Danh Khiêm... đã dành nhiều

sự quan tâm sưu tầm nghiên cứu dân ca quan họ.

Hai tập sách “Dân ca quan họ Bắc Ninh” của các tác giả Nguyễn Văn

Phú, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc được nhà xuất bản Văn hoá

xuất bản năm 1961 và “Một số vấn đề về dân ca quan họ” do Ty Văn hoá

Hà Bắc xuất bản năm 1972, tập hợp những tham luận tại 4 cuộc hội thảo về

quan họ trong các năm 1965, 1967, 1969, 1971 được tổ chức tại cái nôi quan

họ Hà Bắc, có thể coi như hai công trình tiêu biểu cho những thành tựu sưu

tầm nghiên cứu dân ca quan họ cho đến trước năm 1975 ở trong nước. Cùng

thời gian này, ở châu Âu, GSTS Trần Văn Khê cũng đã bắt đầu giới thiệu

dân ca quan họ trong hai công trình “Âm nhạc truyền thống Việt Nam” và

“Hát quan họ”. Năm 1969, sự kiện Đoàn dân ca quan họ Hà Bắc ra đời

cũng là một cột mốc có ý nghĩa trong công tác sưu tầm nghiên cứu quảng bá

dân ca quan họ.

Từ sau năm 1975 cho đến nay, việc sưu tầm nghiên cứu và giới thiệu

rộng rãi dân ca quan họ đã tiến thêm những bước mới ở trong nước cũng

như ngoài nước. Ở ngoài nước, các nhà nghiên cứu, nhạc sĩ Việt kiều như

Trần Văn Khê, Trần Quang Hải, Nguyễn Thuyết Phong, Hoàng Ngọc Tuấn,

6

Hoàng Việt Khanh...tiếp tục có những hoạt động nghiên cứu, giới thiệu dân

ca quan họ đầy đủ và toàn diện hơn nhờ tiếp thu, cập nhật được các thành

tựu sưu tầm nghiên cứu trong nước và của folklore học, dân tộc nhạc học thế

giới. Riêng GSTS Trần Văn Khê đã có tới hơn 60 bài viết về quan họ trên

sách báo quốc tế. Nhiều đoàn nghiên cứu, nhiều chuyên gia âm nhạc và dân

tộc nhạc học thế giới đã đến Việt Nam để nghiên cứu giới thiệu dân ca quan

họ. Đáng chú ý nhất ở trong nước trong thời kỳ này là các sự kiện: phục hồi

các lễ hội truyền thống tại các làng quan họ cổ truyền, công bố các cuốn

sách: “Quan họ - Nguồn gốc và quá trình phát triển” của các tác giả Đặng

Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý (Nhà xuất bản khoa học xã hội-528

trang-1978), “Dân ca quan họ” (Nhà xuất bản âm nhạc - 1997) ,“300 bài

dân ca quan họ Bắc Ninh” (Viện nghiên cứu âm nhạc - 960 trang - 2002)

cùng của tác giả Hồng Thao và việc Nhà nước ta cho phép ngành văn hoá

thông tin và tỉnh Bắc Ninh chính thức lập hồ sơ đề nghị UNESCO công

nhận dân ca quan họ là “Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu nhân loại”.

Với việc thành lập Đoàn dân ca quan họ Hà Bắc (nay là Đoàn dân ca

quan họ Bắc Ninh), lần đầu tiên chúng ta có một đoàn nghệ thuật chuyên

nghiệp nhà nước chuyên về quan họ. Mục tiêu ban đầu của đoàn rất rõ: tập

hợp các nghệ nhân quan họ lão thành và các tài năng trẻ là các là liền anh,

liền chị từ các làng quan họ để phục hồi và phát triển nghệ thuật quan họ cổ

truyền. Trong những năm từ 1970-1974, các nghệ sĩ trẻ từ 13 đến 20 tuổi của

Đoàn, vốn được tuyển lựa từ các làng quan họ cổ truyền, đã về ở tại các làng

quan họ, được các nghệ nhân truyền dạy trực tiếp từng làn điệu, từng câu

hát, từng mỗi luyến láy và mỗi nghệ sĩ trẻ đã tích luỹ được cả trăm bài hát

quan họ cổ truyền. Tiếp đến đoàn đã dựng hai chương trình tái hiện quan họ

hát hội và quan họ hát canh với tên gọi “Quan họ ngày hội” và “đón bạn

ngày xuân”. Sau khi trình diễn để xin ý kiến nghệ nhân và nhân dân các làng

7

quan họ, Đoàn đã có chuyến công diễn ra mắt lịch sử gần nửa tháng trời tại

Hà Nội vào đầu tháng 5/1974 và được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà

nước, giới văn hoá nghệ thuật và nhân dân thủ đô hoan nghênh nhiệt liệt.

Sự có mặt của Đoàn dân ca quan họ có tác dụng nhất định kích thích

sự phục hồi và phát triển sinh hoạt quan họ tại địa phương cũng như giới

thiệu nghệ thuật ca hát quan họ với người xem trong nước và thế giới. Tiếng

hát quan họ đã được những tên tuổi rất được mến mộ như Thuý Cải, Ba

Trọng, Thuý Hường, Khánh Hạ...đưa đi rất xa và có sức chinh phục lớn. Tuy

nhiên, vì nhiều lý do, Đoàn đã không kiên trì được định hướng tốt đẹp ban

đầu, việc cải biên, chỉnh lý theo các nguyên tắc tân nhạc hoá và sân khấu

hoá vội vàng, ồ ạt, nhằm thoả mãn thị hiếu của một số công chúng đã làm

các tiết mục biểu diễn của đoàn đi quá xa cội nguồn, đánh mất nhiều tinh

hoa hương sắc của dân ca quan họ cổ truyền, bị giới quan họ truyền thống dị

ứng, vẫn coi như các sản phẩm của một thứ “quan họ đài”, “quan họ

đoàn”, tức chỉ là hình thức ca nhạc mới mang màu sắc quan họ chứ

không còn là quan họ đích thực.

Việc phục hồi các lễ hội truyền thống của các làng quan họ trong

nhưng năm đổi mới đã tạo ra một động lực mạnh mẽ, một nền tảng lớn để

phục hồi dân ca quan họ. Dân ca quan họ, về cơ bản, là nghệ thuật ca hát của

các hội làng quan họ, do nhân dân tại các làng quan họ sáng tạo, gìn giữ và

truyền bá, pgát triển. Các hội làng Kinh Bắc là môi trường tốt nhất, lý tưởng

nhất để bảo tồn, phát huy, phát triển dân ca quan họ. Các nhóm quan họ,

“bọn quan họ” được phục lập, các cuộc hát thi, hát hội hát canh lại được tổ

chức tại các hội làng. Dân ca quan họ đã phần nào trở lại tại các hội Lim, hội

Diềm, hội Nhồi, hội Ó, hội Thổ Hà, hội Bùi, hội Chắp...Tuy vậy, có thể nhận

thấy sinh hoạt quan họ tại các hội làng hiện nay cũng khá lai tạp, nhiều

phong tục, lề lối cao đẹp xưa đã bị tuỳ tiện bỏ qua và cũng là nơi các loại

8

“quan họ đoàn”, “quan họ đài”, quan họ thương mại lấn át quan họ cổ

truyền. Như vậy, không chỉ ở các “đoàn”, “các “đài”, mà ngay tại các làng

quan họ truyền thống, các loại quan họ nhạc mới, quan họ biểu diễn cũng

đang chiếm thế thượng phong. Thậm chí, một quan chức lãnh đạo ngành văn

hoá thông tin quê hương quan họ đã từng không ngần ngại công khai phát

biểu rằng đã đến lúc nên đưa quan họ cổ truyền, quan họ sinh hoạt đã già

cỗi, lỗi thời vào viện bảo tàng để cho quan họ nhạc mới, quan họ biểu

diễn, một thứ quan họ mà ông cho là thích hợp với thời đại mới, rộng đường

phảt triển.

Nguy cơ mai một thứ quan họ thuần chất, tuyệt đẹp từng có cũng đã

xuất hiện tại nơi được coi là cái gốc của dân ca quan họ, nơi dân ca quan họ

nảy nở, phát triển, thăng hoa và đạt đến những đỉnh cao chói lọi.

Nguyên nhân cơ bản của thực trạng này là do sự thiếu hiểu biết toàn

diện, sâu sắc về truyền thống quan họ, về những đặc trưng nghệ thuật và quy

luật bảo tồn phát triển của nó cùng sự bối rối mất phương hướng trong việc

giải quyết các mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển, giao lưu và hội nhập.

Những thành tựu nhiều mặt trong công tác sưu tầm nghiên cứu quan họ cổ

truyền đã không được các nhà quản lý và những người thực hành quan họ

biết, hiểu, nắm vững và vận dụng trong thực tế phục hồi và phát triển dân ca

quan họ.

Cần khẳng định rằng thành tựu sưu tầm nghiên cứu về dân ca quan họ

trong hơn nửa thế kỷ qua dưới ánh sáng của đường lối văn hoá văn nghệ của

Đảng và các chính sách của Nhà nước ta là không nhỏ.

Nổi bật nhất trong việc sưu tầm dân ca quan họ là các công trình

“Dân ca quan họ Bắc Ninh” (của nhóm tác giả Nguyễn Văn Phú, Lưu Hữu

Phước, Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc) với bộ sưu tập 200 làn

điệu và 320 bài ca quan họ khác nhau, “Dân ca quan họ - Lời ca và bình

9

giải” (Lê Danh Khiêm, Hoắc Công Huynh- Trung tâm Văn hoá quan họ Bắc

Ninh 2001) với 213 giọng quan họ và 346 bài ca, “300 bài dân ca quan họ

Bắc Ninh” của Hồng Thao, một người Hà Nội vì yêu quan họ đã lên sinh

sống ở Thị Cầu Bắc Ninh, chịu nghèo khó, hy sinh trọn đời để sưu tầm

nghiên cứu quan họ. Có thể nói công phu và nghiêm cẩn nhất là công trình

của Hồng Thao sưu tầm, ghi âm, ký âm chú giải hết sức trung thực, kỹ lưỡng

174 làn điệu dân ca quan họ và hơn 100 dị bản chọn lọc từ chính các nghệ

nhân nổi tiếng ở các làng quan họ, không cải biên, không chỉnh lý.

Trong công tác nghiên cứu, các nhạc sĩ Văn Cao, Lê Yên, Lưu Hữu

Phước, Tú Ngọc, Nguyễn Viêm, Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Đình Phúc, Đôn

Truyền... có những phát hiện, đúc kết quý giá về những đặc sắc âm nhạc học

của dân ca quan họ như một trong những đỉnh cao của âm nhạc cổ truyền

Việt Nam. Đặc biệt nhạc sĩ Hồng Thao, người nhạc sĩ đã thực sự hiến mình

cho dân ca quan họ, không những cần mẫn thận trọng trong sưu tầm mà còn

xuất sắc nổi bật trong nghiên cứu. Với “Dân ca quan họ”, chính Hồng Thao

đã có một công trình phân tích, kiến giải, tổng kết cụ thể, toàn diện, sâu sắc,

khoa học và có sức thuyết phục về tính chất và đặc điểm của âm nhạc và ca

hát quan họ. Nhà nghiên cứu Đặng Văn Lung đóng góp một công trình mô tả

khá sâu sắc, toàn diện về không gian văn hoá, nguồn gốc và quá trình phát

triển của dân ca quan họ với tư cách là một hình thức diễn xướng dân gian

Kinh Bắc. Nhà nghiên cứu Trần Linh Quý rất nhạy cảm, sáng tạo khi phục

hiện được chân dung tinh thần cùng tài năng và những đặc điểm sáng tạo của

“Người nghệ sĩ quan họ”, nhân vật trung tâm của dân ca quan họ .

Tuy vậy, cho đến nay, vẫn chưa có những công trình có tính chất tổng

kết những đặc trưng cơ bản của dân ca quan họ, một hình thức diễn xướng

dân gian, một thể loại âm nhạc cổ truyền đã đạt đến đỉnh cao, đã được luyện

thành ‘vàng mười” và có sức sống xuyên thời gian, xuyên không gian, tìm ra

10

các quy luật bảo tồn và phát triển được hình thành từ chính trong quá trình

phát triển, biến hoá của quan họ, mạnh dạn chỉ ra những cái bất biến và khả

biến của dân ca quan họ, góp phần giúp việc bảo tồn và phát triển sinh hoạt

âm nhạc truyền thống độc đáo này đúng hướng, đạt hiệu quả cao, không

“gieo vừng ra ngô” như Bác Hồ từng cảnh báo.

Công trình này của nhóm tác giả thuộc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn

và Phát huy Văn hoá Dân tộc trực thuộc Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ

thuật Việt Nam mong muốn bước đầu bù đắp vào chỗ thiếu hụt đó trong

công tác nghiên cứu dân ca quan họ.

Trên cơ sở phác hoạ toàn cảnh không gian văn hoá của quê hương

quan họ, phục hiện chân dung sinh hoạt quan họ với những phong tục lề lối,

các chức năng và hình thức diễn xướng cùng chân dung người nghệ sĩ quan

họ, “một trong những hình mẫu về người nghệ sĩ Việt Nam chân chính”,

phân tích những đặc sắc về âm nhạc, ca hát, văn học và trang phục quan họ,

công trình của chúng tôi hướng đến việc tìm ra những đặc trưng cơ bản, bất

hủ của dân ca quan họ, đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát triển dân ca

quan họ trong cuộc sống hôm nay và trong tương lai. Đây là dạng công trình

vừa mang tính chất nghiên cứu cơ bản, tổng hợp vừa có tính chất ứng dụng,

thực hành xã hội.

Trong tên gọi “Tìm về cội nguồn quan họ” mà chúng tôi tạm đặt cho

công trình, từ cội nguồn nghiêng về nghĩa là những hạt nhân cơ bản, những

tinh hoa có tính chất đặc trưng, bản chất, những ADN di truyền của quan họ

mà nếu đánh mất nó trên con đường biến đổi phát triển, quan họ sẽ không

còn là quan họ.

Với nội dung và mục tiêu nghiên cứu đó, công trình của chúng tôi sẽ

có các phần nghiên cứu sau:

Chương I

11

Kinh Bắc, không gian văn hoá của quê hương quan họ.

Chương II

Từ những truyền thuyết về nguồn gốc và thời điểm ra đời của dân

ca quan họ.

Chương III

Chân dung sinh hoạt văn hoá quan họ xưa.

Chương IV

Âm nhạc và ca hát quan họ.

Chương V

Văn học quan họ

Chương VI

Trang phục quan họ.

Chương VII

Thực trạng và giải pháp bảo tồn và phát huy văn hoá quan họ.

Đây là một nhiệm vụ nghiên cứu rất khó khăn, phức tạp, có những đòi

hỏi cao về lý luận và thực tiễn đối với các thành viên nghiên cứu. Tuy được

tận hưởng thành tựu phong phú của các nhà nghiên cứu đi trước và có nhiều

cố gắng tổng hợp, phát triển cũng như mạnh dạn nêu ra những phát hiện,

chiêm nghiệm, những kiến giải và đề xuất mới theo đòi hỏi của thực tiễn,

nhưng do trình độ và thời gian có hạn, chắc chắn công trình còn nhiều thiếu

sót, bất cập, mong nhận được những bổ sung chỉ giáo của các bậc tiền bối

cùng đồng nghiệp gần xa quan tâm tới dân ca quan họ.

12

Chuơng Một

KINH BẮC

KHÔNG GIAN VĂN HOÁ CỦA QUÊ HƯƠNG QUAN HỌ

I. Kinh Bắc - quê hương quan họ.

Dù thường được gọi là dân ca quan họ Bắc Ninh nhưng quê hương

dân ca quan họ không chỉ thuộc địa phận Bắc Ninh mà còn bao gồm cả một

số địa phương của Bắc Giang. Từ trước cách mạng tháng Tám, hai nhà

nghiên cứu Minh Trúc và Toan Ánh trên báo Trung Bắc tân văn từ năm

1937 và trong sách Phong tục Việt Nam năm 1943, cho biết các làng Thổ Hà,

Mật Ninh, Nội Ninh và một số làng khác ở Lục Ngạn, Việt Yên, Bắc Giang

cũng biết hát và lập hội hát quan họ nhộn nhịp vào mùa xuân như các làng ở

Võ Giàng, Tiên Du, Yên Phong, Bắc Ninh. Trong 49 làng quan họ truyền

thống như mọi người thường nhắc, ngoài 44 làng thuộc ba huyện Bắc Ninh

thì có 5 làng thuộc huyện Việt Yên, Bắc Giang. Trong các đợt điền dã gần

đây để nghiên cứu dân ca quan họ tại các địa phương Bắc Giang trong năm

2005, hai nhà nghiên cứu trẻ của Viện Văn hoá Thông tin Bùi Quang Thanh

và Phạm Nam Thanh cho biết đã phát hiện thêm 15 làng quan họ cổ truyền

nữa tại các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hoà với hàng chục nghệ nhân

có tuổi đời từ 75 đến 95 và hàng trăm liền anh, liền chị các thế hệ. Như vậy,

ta càng có căn cứ để khẳng định dân ca quan họ đã hình thành và phát triển

trên một cùng rộng lớn cả hai bờ nam bắc sông Cầu thuộc hai tỉnh Bắc Ninh

và Bắc Giang ngày nay và trấn Kinh Bắc xưa.

13

1. Kinh Bắc qua các thời kỳ lịch sử.

Kinh Bắc là một trong Tứ trấn quanh kinh đô Thăng Long xưa, cùng

với trấn Sơn Nam, trấn Hải Đông và trấn Hưng Hóa (tức trấn Đoài, Đoài có

nghĩa cổ là phía tây, hướng tây). Trong dân gian có câu:

Làm trai cho đáng nên trai,

Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên.

Tục ngữ có câu:

Ăn Bắc, mặc Kinh

Nhiều người cho đến giờ phút này vẫn hiểu lầm Bắc ở đây là Bắc Bộ -

châu thổ sông Hồng, còn Kinh là Kinh thành Huế - Phú Xuân thời Nguyễn.

Hiểu như thế rất sai! Bắc ở đây là trấn Kinh Bắc, xứ Kinh Bắc. Còn Kinh ở

đây là kinh đô hay kinh kỳ Thăng Long, là Đông Kinh, là Kẻ Chợ, nay là Hà

Nội thân yêu của chúng ta. Mặc Kinh nghĩa là dân kinh đô thì mặc đẹp,

trưng diện… còn ăn Bắc tức là dân Kinh Bắc ăn ngon, ăn nhiều, đánh chén

lu bù.

Kinh Bắc là địa danh xuất hiện từ Lý triều. Khi đó họ Lý lên làm vua,

nắm binh quyền ở Thăng Long. Họ Lý phát tích từ Kinh Bắc.

Nhưng đất Kinh Bắc thì không phải từ đời Lý mới có mà nó hiện diện

từ rất sớm, ngay trong thời Hùng Vương dựng nước.

Vào thời vua Hùng dựng nước, vùng Kinh Bắc quê hương quan họ

thuộc về bộ Vũ Ninh, một bộ lâu đời và quan trọng của người Lạc Việt.

Vào thời nước Âu Lạc của An Dương Vương - Thục Phán thì Kinh

Bắc thuộc về lãnh địa của đất Long Biên (Bộ lạc Long Biên, tức bộ lạc

Rồng) trong khi đất Tây Vu (Bộ Tây Vu) thuộc bộ lạc Rùa.

Thời kỳ Hán triều (Tây Hán) diệt nước Nam Việt của dòng họ Triệu,

chiếm luôn nước ta (Giao Chỉ, Âu Lạc) thì lúc này vùng Kinh Bắc thuộc

huyện Long Biên, Giao Chỉ quận.

14

Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng (1827 – 1910), tác giả Sử học bị khảo, cho

rằng: thời Hán, thành Long Biên ở Quế Dương, Võ Giàng (nay thuộc Bắc

Giang). Trong sách Đất nước Việt Nam qua các đời (1964) thì học giả Đào

Duy Anh lại quan niệm rằng: thành Long Biên chính là thị xã Bắc Ninh ngày

nay hoặc nằm ở phía bắc thị xã Bắc Ninh.

Thế kỷ VI Lý Bý (tức Lý Bôn) khởi nghĩa và lập nên vương quốc Vạn

Xuân. Long Biên là kinh đô của vương quốc Vạn Xuân. Nhưng triều đại của

họ Lý (Lý Bôn – Lý Phật Tử) tồn tại không lâu.

Vào thời Tùy và Đường đất Kinh Bắc thuộc huyện Long Biên, Giao

Châu.

Thời kỳ Loạn 12 sứ quân, Kinh Bắc thuộc vùng kiểm soát của một sứ

quân là Nguyễn Thủ Tiệp.

Thời Lý, vùng Kinh Bắc thuộc địa hạt của Bắc Giang Lộ.

Thời Trần tình hình vẫn như vậy.

Thời Lê Thánh Tông, đất nước được chia thành 12 Thừa Tuyên. Danh

từ, danh xưng hay địa danh Kinh Bắc xuất hiện ở thời kỳ Lê Thánh Tông.

Khi Nguyễn Ánh lên làm vua (1802), chia Bắc Bộ làm 11 trấn thì

Kinh Bắc là một trong số 11 trấn đó, và là một trong 5 Nội trấn.

Năm 1822 vua Minh Mạng đổi trấn Kinh Bắc thành trấn Bắc Ninh.

Năm 1831 ông ta lại đổi một lần nữa từ trấn Bắc Ninh thành ra tỉnh Bắc

Ninh.

Năm 1895 viên toàn quyền người Pháp ở Đông Dương là Arousseau

ký nghị định tách tỉnh Bắc Ninh thành 2 tỉnh là: Bắc Giang và Bắc Ninh.

Sau ngày cách mạng tháng Tám thành công, địa giới hành chính hai

tỉnh vẫn giữ nguyên. Trong gần ba thập kỷ 1960-1990, Bắc Ninh - Bắc

Giang được hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc và đến cuối những năm 1990 thì

chia lại như cũ.

15

a/Kinh Bắc thời Đông Sơn – Hùng Vương

Cách đây 6000 năm thì biển còn vào tới tận Việt Trì. Cách đây 4000

năm thì biển vào tới tận nơi mà bây giờ là thị xã Sơn Tây. Sự hình thành

đồng bằng sông Hồng là một quá trình lịch sử trường kỳ. Nhưng vùng đất

Kinh Bắc (Bắc Ninh - Bắc Giang) thì đã xuất hiện từ rất lâu đời, ngay từ thời

Hùng Vương dựng nước.

Bắc Giang là một vùng đất cổ với sự hiện diện của văn hóa Sơn Vi

với niên đại cách đây khoảng từ 2 đến 3 vạn năm (20000 năm đến 30000

năm), với 14 địa điểm (14 di chỉ, di chỉ văn hóa).

Thời Hùng Vương và An Dương Vương, Bắc Giang có 7 làng cổ và

địa điểm khảo cổ học. Bắc Ninh có tới 33 làng cổ và khu mộ cổ. Tại đây đã

mọc lên nhiều xóm làng của tổ tiên người Việt. Cũng đã xuất hiện tại Kinh

Bắc nền văn hóa trồng lúa nước và nền văn minh, nền kỹ nghệ luyện kim

(màu) phát triển, nâng cao cùng các nghề thủ công và cả một nền nghệ thuật

thể hiện trên trống đồng Đông Sơn của người Việt cổ. Trên trống đồng ta

thấy hiện diện đầy đủ các nhạc cụ dân tộc: khèn bè, sáo, trống, sênh, chũm,

chọe…

Tại Luy Lâu, năm 1997 người ta phát hiện ra được mảnh khuôn đúc

trống đồng. Điều này khẳng định rõ rệt trống Đông Sơn có nguồn gốc bản

địa Giao Chỉ (Bắc Bộ). Luy Lâu nói riêng và Kinh Bắc nói chung là nơi mà

ngày xưa trống đồng Đông Sơn được sản xuất. Kinh Bắc vào thời Hùng

Vương là bộ Vũ Ninh, một trong 15 bộ của nước Văn Lang - Lạc Việt của

người Việt cổ. Hùng Vương là thủ lĩnh của bộ Văn Lang, bộ lớn nhất, quan

trọng nhất về dân số, binh lực, về kinh tế và văn hóa trong tổng số 15 bộ của

nước Văn Lang. Chính vì Văn Lang là bộ quan yếu nhất mà thủ lĩnh bộ này

được tập thể các thủ lĩnh bầu làm quân trưởng (nghĩa là quốc trưởng) của

nước Văn Lang; nghĩa là liên minh bộ lạc của người Việt cổ.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!