Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tìm hiểu pháp luật Việt Nam về tôn giáo, tín ngưỡng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TS. TRẦN MINH THƯ
TÌM HlỄU
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VE
TÔN GIÁO, TÍN NGƯỞNG
NHÀ XUẤT BẢN Tư PHÁP
HÀ NỘI - 2005
LỜI GIỚI THIỆU
Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của nước ta đã được
hinh thành, phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển
của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trải
qua hơn 50 năm xây dựng và bảo vệ đất nước, cùng với sự
lớn mạnh của Nhà nước, pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo
ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và trở thành một bộ
phận quan trọng không thể thiếu được trong hệ thống pháp
luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo là công cụ quan trọng
bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín
ngưởng, tôn giáo của nhản dân, là cơ sở pháp lý để đấu
tranh chống lại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù
địch lợi dụng tôn giáo xăm phạm độc lập, chủ quyền của
đất nước; đồng thời, góp phần quan trọng vào việc thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ đoàn kết đồng bào theo đạo và
đồng bào không theo đạo trong khối đại đoàn kết toàn dân,
hướng các tôn giáo đồng hành với dân tộc.
Đê pháp luật đi vào cuộc sống, thực sự trở thành công
cụ điều chỉnh mọi hoạt động liên quan đến tôn giáo thì một
trong những những vấn đề quan trọng là phải tuyên truyền
5
đến tận từng người dân. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã chỉ rõ: phái đấy
mạnh tuyên truyền chính sách, pháp luật về hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo, góp phần đấu tranh làm thất bại những
luận điệu xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch về
tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta.
Nhằm góp phần tuyên truyền, phổ biên pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo đến các tầng lớp nhân dân, Nhà xuất bản
Tư pháp xin trân trọng giới thiệu cuốn sách: “Tìm hiếu
pháp luật Viêt Nam vê tôn giáo, tín ngưỡng” của Tiến
sỹ Trần Minh Thư. Nội dung cuốn sách gồm 3 phần.
Phần thứ nhất: Một sô vấn đ ề cơ bản pháp luật vê
tôn giáo, tín ngưỡng.
Phần thứ hai: Pháp luật về hoạt động tôn giáo ở
Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
Phần thứ ba: Hỏi đáp vê pháp luật tôn giáo,
tín ngưỡng.
Chúng tôi hy vọng cuốn sách sẽ góp phần giúp bạn đọc
có những hiếu biết cơ bản về chính sách củng như pháp luật
của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo. Trên cơ sở đó, có những
nhận thức đúng đắn về tôn giáo, tín ngưỡng và có đóng góp
thiết thực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hà Nội, tháng 11/2005
NHÀ XUẤT BẢN Tư PHÁP
6
Phần thứ nhất
MỘT só VÁN ĐỂ C ơ BẢN PHÁP LUẬT
VỂ TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG
Phẩn thứ nhất. Một sô vân đề cơ bản PL về tôn giáo, tín ngưỡng
I. KHÁI NIỆM TÔN GIÁO
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội đã tồn tại hàng nghìn
năm. Ke từ khi xuất hiện, tôn giáo đã trở thành một yếu tố
tham gia vào các quá trình xã hội, ảnh hưởng đến nhiều
phương diện của đời sông con người. Tôn giáo đã được nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, với mong muôn tìm ra
tiếng nói chung nhất về tôn giáo. Tuy nhiên đến nay, khái
niệm vê tôn giáo vẫn đang là vấn đề tranh cãi trong giói
nghiên cứu. Định nghĩa về tôn giáo phụ thuộc vào quan
điểm và phương pháp tiếp cận của các nhà nghiên cứu.
Dưới góc độ xã hội học, nhà xã hội học nổi tiếng của
Pháp Edurk Kherm định nghĩa: “Tôn giáo là một hệ thống
cò kết những tín ngưỡng và những thực hành có liên quan
với các sự vật thiêng liêng, tức là những sự vật tách riêng
ra, bị cấm đoán, đó là những tín ngưỡng và thực hành
thống nhất tất cả những ai tuân theo thành một cộng đồng
tinh thần, gọi là Giáo hội”(l).
(,) Viện nghiên cứu tôn giáo, về tôn giáo tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, 1994,
tr. 157.
9
Tìm hiểu pháp luật Việt Nam về tôn giáo, tín ngưỡng
Học thuyết Mác - Lênin, để cập đến vấn đề tôn giáo chủ
yếu ơ góc độ chính trị nhằm giúp cho người cộng sản có
nhận thức đúng đắn về bản chất, nguồn gốíc, vai trò của tôn
giáo trong đời sông xã hội. c. Mác và Ph. Ảng - ghen cho
tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại
xã hội với một cách thức hoang đường. Trong tác phẩm:
“Chống Duy - rinh”, Ph. Áng - ghen đã kết luận: “Tất cá
mọi tôn giáo chang qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đẩu
óc COIĨ người, của những lực lượng ở bên ngoài chi phôi cuộc
sông hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng ở trần thế đã mang hình thái những lực lượng
siêu trần thể'.
ở Việt Nam hiện nay, khái niệm tôn giáo được đưa ra
dưới hai góc độ khác nhau.
Dưới góc độ tôn giáo học, các nhà nghiên cứu tôn giáo
ở nước ta đã đưa ra nhiều khái niệm về tôn giáo. Từ điển
tiếng Việt năm 1992 do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa tôn
giáo là “i. Hình thái ý thức xã hội, gồm những quan niệm
dựa trên cơ sở tin và sùng hái những lực lượng siêu nhiên,
cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên quyết định số
phận của con người, con người phải phục tùng, tôn thờ; 2.
Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng, hay những vị thần
linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng
bái ấy”. Mai Thanh Hải, tác giả cuốn từ điển tôn giáo năm
2002 đưa ra khái niệm: “Tôn giáo là một hình thái nhận
thức xã hội, phản ánh hiện thực qua các khái niệm, hình
10
Phẩn thứ nhất. Một số vấn để cơ bản PL về tôn giáo, tín ngưỡng
ảnh mang tính chát ảo ảnh, ảo vọng. Nói chung, đó là
những niềm tin vào lực lượng siêu nhiên, vô hình mà con
người cho là linh thiêng, được con người sùng bái và cầu
khấn đê nhờ cậy, che chớ hoặc ban phát điều tốt lành".
Cũng bàn vê khái niệm tôn giáo, Giáo sư Đặng Nghiêm
Vạn cho rằng, có một khái niệm tôn giáo chung nhất cho cả
phương Đông và phương Tây là: “thế giới siêu nhiên vô
hình được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua
lại hư ảo giữa con người và thế giới đó nhằm lý giải những
vấn đề trên trần thê, củng như ở thế giới bên kia trong
những hoàn cảnh lịch sử, địa lý khác nhau, của từng cộng
đồng tôn giáo hay xã hội khác”il).
Dưới góc độ khoa học về quản lý nhà nước, khái niệm
tôn giáo được đưa ra dựa trên quan điểm coi tôn giáo là một
tô chức, khác với các loại tín ngưỡng dân gian. Đây là
hướng nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực đôi với việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật vê hoạt động tôn giáo ỏ Việt
Nam hiện nay. Nhà nghiên cứu tôn giáo, PGS. Nguyễn
Văn Kiệm cho rằng, một tôn giáo được công nhận phải hội
tụ đủ các điều kiện: “một niềm tin vào một đấng siêu nhiên
có vai trò quyết định đối với vận mệnh của con người trong
cuộc sông hiện tại củng như cuộc sông bên kia; một hệ
thông lễ nghi đôi khi đơn giản, đôi khi phức tạp, cầu kỳ
GS. Đặng Nghiêm Vạn, Những vấn để lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, 1998.
11
Tim hiểu pháp luật Việt Nam về tôn giáo, tín ngưỡng
nhằm giúp tín đồ thường xuyên gắn bó với niềm tin; một tô
chức nhân sự ít nhiều quy mô về hệ thống điều hành việc
hành đạo của tín đồ; hệ thông luân lý đạo đức cho người tu
hành, đây là thành tô được coi là quan trọng nhất”°\ Tác
giả Nguyễn Xuân Diệu đưa ra khái niệm: “Tôn giáo là cộng
đồng của những người cùng chung một tín ngưỡng, có hệ
thông giáo lý, giáo luật, giáo lễ và có tổ chức”(2\
Theo chúng tôi, khái niệm tôn giáo phải có nội hàm sau:
Thứ nhất: tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, đã tồn
tại và phát triển cách đây hàng nghìn năm. Tôn giáo phản
ánh xã hội một cách hư ảo, song nó lại được một bộ phận
quần chúng tin theo, tôn thờ theo những lễ nghi, lề luật nhất
định; nó luôn thích ứng và chịu sự ảnh hưởng, tác động của
những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của một
dân tộc, quốc gia mà nó đang tồn tại; đồng thòi nó cũng có
tính độc lập tưdng đối, có tác động trở lại vói các lĩnh vực
trên với tư cách là một yếu tô thuộc kiến trúc thượng tầng.
Thứ hai: tôn giáo là một hiện tượng xã hội được xác
định dựa trên các dấu hiệu sau đây:
Có giáo lý, giáo luật, lễ nghi. Đó là hệ thông lý thuyết
<1) PGS. Nguyễn Văn Kiệm, Tôn giáo và đời sống hiện dại, Viện thông tin khoa
học xã hội xuất bản, 1997.
(2) Nguyễn Xuân Diệu, Luận văn thạc sỹ luật học, đé tài "Hoàn thiện pháp luật
vẻ tôn giáo ở nước ta hiện naỳ', Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003.
12
Phần thứ nhất. Một số vấn đề cơ bản PL về tôn giáo, tín ngưõng
phản ánh thê giới quan, nhân sinh quan của tôn giáo. Giáo
lý, giáo luật tôn giáo còn quy định các hình thức lễ nghi,
thờ phụng, cầu nguyện của các tín đồ. Đây cũng chính là
các hình thức để các tín đồ, chức sắc tôn giáo “giao tiếp" với
các vị thần, các đấng siêu nhiên mà họ tôn thờ, để họ thực
hiện tình cảm, cầu nguyện xin được những điêu may mắn,
hạnh phúc, giàu sang...
- Có hình thức tổ chức quản lý và hình thành cộng đồng
tôn giáo được Nhà nước công nhận. Tức là phải có tố chức
giáo hội, có bộ máy quản lý, điều hành, có điểu lệ hoạt động
với sô lượng khá đông quần chúng tín đồ; có hàng ngũ chức
sắc và những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp giữ
vai trò hướng dẫn, quản lý và chịu trách nhiệm trước Nhà
nước về hoạt động của tôn giáo trong địa bàn được giáo hội
phân công phụ trách.
- Có cơ sở vật chất nhất định như: nhà thờ, thánh thất,
chùa và các cơ sở thờ tự khác. Đây là nơi diễn ra các hoạt
động tôn giáo cộng đồng của tín đồ, nơi thực hiện các “hoạt
động giao tiếp" vối đấng siêu nhiên.
Ba dấu hiệu cơ bản trên đây cũng là những tiêu chí đế
Nhà nưỏc ta xem xét công nhận tư cách pháp nhân của một
tôn giáo; để phân biệt giữa tín ngưỡng dân gian vói tôn
giáo, giữa tôn giáo chính thống vói những tạp giáo mới
xuất hiện ở nước ta.
Từ sự phân tích ỏ trên, có thể đưa ra khái niệm tôn
giáo như sau:
13
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh xã
hội một cách hư ảo, được một bộ phận quần chúng tin theo,
tôn thờ theo những lễ nghi, lề luật chặt chẽ; nó còn là một
thực thê xã hội được xác định dựa trên các dấu hiệu: có giáo
lý, giáo luật, giáo lễ, có hình thức tổ chức quản lý và hình
thành cộng đồng tín đồ và cơ sở vật chất nhất định.
II. KHÁI NIỆM TÍN NGƯỠNG
Hiện nay nhận thức vê tôn giáo và tín ngưỡng còn
những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, tín ngưởng và
tôn giáo chỉ là một, tín ngưỡng là giai đoạn đầu của tôn
giáo. Lại có ý kiến coi tín ngưỡng là nền của tôn giáo, là yếu
tô cấu thành tôn giáo. Trong cuốn từ điển Tôn giáo của tác
giả Mai Thanh Hải định nghĩa: “Tín ngưỡng là lòng tin và
sự ngưởng mộ, ngưỡng vọng vào một lực lượng siêu nhiên,
thần bí; lực lượng siêu nhiên đó có thê mang hình thức biêu
tượng “trời”, “phật”, “thần thánh” hay một sức mạnh hư ảo,
huyền bí vô hình nào đó tác động đến đời sông tâm linh của
người ta, được người ta tin tưởng có thật và tôn thờ".
PGS,TS. Nguyễn Đức Lữ cũng có đồng quan điểm,
cho rằng: “Tín ngưỡng chỉ là niềm tin, đức tin và sự ngưỡng
mộ, ngưỡng vọng của con người vào cái gì đó mà người ta
cho là siêu phàm, là cao cả và đẹp đ ề Hl). Người có tín
Tìm hiểu pháp luật Việt Nam vể tôn giáo, tín ngưỡng
01 Nguyễn Đức Lữ, Tin ngưỡng và tôn giáo - Đôi nét phác thảo, Tạp chí thông
tin tý luận, số 12,1999.
14
Phẩn thứ nhất. Một số vấn đề cơ bản PL về tôn giáo, tín ngưỡng
nguỉng tin rằng đấng siêu nhiên và nhân vật họ tôn thờ
đều có một sức mạnh phi thường, có thế giúp họ đạt được
nhũng ước muôn trong cuộc sông.
Như vậy, tín ngưỡng và tôn giáo đều có nguồn góc xã
hội, nguồn gôc nhận thức và nguồn gốc tâm lý; đều thể hiện
ước vọng, mong muốn của con người vê một cuộc sống tốt
đẹp ở trần gian. Giống như tôn giáo, tín ngưỡng cũng có
chứ.' năng đền bù hư ảo, hướng con người tới hạnh phúc ở
thiên đường, ở thê giới bên kia, đó mới là hạnh phúc vĩnh
viễr, nhằm xoa dịu và quên đi nỗi đau hiện thực. TS. Phan
Đứ( Dư cho rằng: “Tín ngưỡng và tôn giáo đều là niềm tin
của con người vào cái siêu thực, đảng thiêng liêng và cả tôn
giác lẫn tín ngưỡng đều phải thông qua các hoạt động lễ
nghi đê biêu thị lòng tin của con người với đấng thiêng
liêng. Đây chính là điều cốt lõi khiến người ta lầm tưởng
tôn giáo đồng nhất với tín ngưỡng"w.
Theo quan điểm của chúng tôi, tuy có những điểm
tương đồng, nhưng tôn giáo và tín ngưỡng là những khái
niện không đồng nhất. Tôn giáo khác tín ngưỡng ở chỗ, tôn
giác có sáu thành tô cấu thành: giáo lý, giáo luật, giáo lễ,
giác sản, giáo hội và quần chúng tín đồ. Bất kỳ một người
nào muôn gia nhập một tôn giáo, ngoài niềm tin tôn giáo
còn phải được sự chấp nhận của tô chức giáo hội hoặc người
01 Đé tài khoa học cấp bộ, An ninh trong lĩnh vực tôn giáo - Lý luận và thực
tiễn, 3ộ Công an.
15
Tìm hiểu pháp luật Việt Nam về tôn giáo, tín ngưỡng
chủ trì cơ sở thờ tự. Vì vậy, có thê nói tôn giáo là một thực
thể xã hội, thuộc lĩnh vực hoạt động thực tiễn, có tổ chức.
Trong khi đó, tín ngưỡng là một phạm trù tâm lý, tình cảm,
có hình thức biểu hiện thông qua các hoạt động lễ hội (như:
hội Đền Hùng, hội Gióng, hội cầu mưa,...).
III. HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO • »
Khoản 5 Điều 3 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo
định nghĩa:
“Hoạt động tôn giáo là việc truyển bá, thực hành giảo lý,
giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo”.
Như vậy, hoạt động tôn giáo rất đa dạng và có thể chia
ra làm 2 loại:
- Thứ nhất là hoạt động thuần tuý tôn giáo. Hoạt động
tôn giáo là những hoạt động cụ thể của tổ chức tôn giáo và
cá nhân tín đồ, chức sắc, nhà tu hành nhằm mục đích thỏa
mãn các nhu cầu tôn giáo của cộng đồng và từng cá nhân.
Hoạt động tôn giáo chủ yếu được diễn ra dưói ba hình thức:
+ Hình thức hoạt động thứ nhất: là những hoạt động lễ
nghi, thờ phụng nhằm thỏa mãn nhu cầu của tín đồ, chức
sắc tôn giáo.
Nhà nước không can thiệp đôi với loại hoạt động này.
Tuy nhiên, các hoạt động đó chỉ được diễn ra trong khuôn
16
Phẩn thứ nhất. Một sô vấn đề cơ bản PL về tôn giáo, tín ngưỡng
viên thờ tự của các tôn giáo, hoặc nhà riêng tín đồ. Nếu
hoạt động này diễn ra ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc
thành phần tham gia là người nước ngoài hoặc người ở
nhủng nơi khác đến, thì phải xin phép và chịu sự quản lý
của chính quyền và các cơ quan chức năng theo quy định
của pháp luật. Nếu người nào lợi dụng hoạt động tôn giáo
để tuyên truyền mê tín, dị đoan, kích động quần chúng
hoặc vì mục đích phi tôn giáo, thì đểu coi là vi phạm pháp
luật và sẽ bị xử lý tùy theo mức độ vi phạm.
+ Hình thức hoạt động thứ hai: là những hoạt động
nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất, phát triển lực lượng của
tôn giáo như: xây sửa nơi thờ tự, đào tạo chức sắc, quan hệ
quốc tế... Tuy đây là những hoạt động vì mục đích tôn giáo
nhưng có liên quan đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội như: địa chính, quy hoạch, in ấn, xuất bản, xuất
nhập cảnh... Vì vậy, hình thức hoạt động này cũng phải
chịu sự quản lý của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
+ Hình thức hoạt động thứ ba: là những hoạt động liên
quan đến cơ cấu hành chính của các tổ chức giáo hội, như
việc tách, lập xứ, họ đạo mới; thành lập hội đoàn, dòng tu;
bố nhiệm, thuyên chuyển chức sắc... Hình thức hoạt động
này mang tính chất nội bộ của tôn giáo, nhưng có liên quan
đến vấn đê quản lý nhà nước đôi với các hội quần chúng,
ảnh hương nhất định đôi với việc đảm bảo an ninh, trật tự
ở địa phương, vì vậy, cũng phải chịu sự quản lý của Nhà
nước theo quy định của pháp luật.
17