Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tìm hiểu nhà thờ tộc trên địa bàn quận ngũ hành sơn, thành phố đà nẵng.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------
KHÓA LUÂN T ̣ ỐT NGHIÊP Đ̣ ẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HÓA HỌC
Đề tài:
TÌM HIỂU NHÀ THỜ TỘC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN NGŨ
HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Hoàng Thân
Người thực hiện:
Phan Thị Hoài Thư
Đà Nẵng, tháng 5/2013
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa Việt Nam được hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nền văn hóa đó là sản phẩm của sự sáng
tạo, quy tụ sự tinh túy với sức sống trường tồn và bền vững cùng với thời gian
của biết bao thế hệ người Việt. Để có được cuộc sống như ngày hôm nay, ông
cha ta đã vượt qua biết bao thăng trầm, quyết tâm đánh đuổi bọn giặc xâm
lăng, bảo vệ và xây dựng đất nước. Dân Việt trọng lễ nghĩa, để thể hiện lòng
thành kính, biết ơn đối với tổ tiên đã sinh thành và gây dựng nên cuộc sống
cho con cháu, từ lâu, mỗi con người Việt đã lấy việc thờ cúng tổ tiên làm
phong tục, chuẩn mực đạo đức cho mình.
Tục thờ cúng tổ tiên ra đời từ lâu trên cơ sở niềm tin về sự bất tử của
linh hồn. Con người sau khi chết đi, linh hồn người chết sẽ trở về thăm non,
phù hộ cho con cháu. Thờ cúng tổ tiên là một phong tục không bắt buộc
nhưng nó đã trở thành luật bất thành văn của con cháu người Việt. Không
nhất thiết phải mâm cao cỗ đầy, chỉ cần một nén nhang, con cháu trong gia
đình đã thể hiện được lòng thành kính, hướng về cội nguồn, tưởng nhớ những
người thân đã khuất. Đạo thờ cúng tổ tiên là đạo làm người. Người Việt Nam
may mắn có chung một đạo, có chung một tổ để hướng về, có chung một
miền đất tổ để nhớ, một bàn thờ tổ để tri ân. Hằng năm, dân Việt cả nước
trang nghiêm tổ chức lễ giỗ các các bậc tiên tổ của mình như: Giỗ tổ Hùng
Vương, Hội đền Kiếp Bạc.... Ngoài việc thờ cúng “Mẹ Âu Cơ”, người có
công sinh ra các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam và các bậc anh hùng
khác, mỗi dòng họ đều có một nơi thiêng liêng để thờ cúng tiên tổ, những vị
tiền hiền đã xây dựng nên cuộc sống cho con cháu mình. Đó chính là nhà thờ
tộc.
Nhà thờ tộc luôn có một vị trí đặc biệt trong thế giới tâm linh của
những người con trong dòng họ bởi đó là nơi giúp họ nhớ lại những đỉnh cao
vinh quang của dòng họ, những tấm gương sáng của tổ tiên và đồng thời
những ước vọng của mỗi con người trong dòng họ được nguyện cầu tại đây.
Nhà thờ tộc không chỉ là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử quan trọng của dòng
họ, nó còn là nơi gắn kết các thành viên tạo nên một cộng đồng nhỏ trong xã
hội đương đại, gìn giữ gia phong của dòng họ. “Cây có gốc mới nảy cành
xanh ngọn, nước có nguồn mới biển rộng sông sâu”. Nhà thờ tộc từ lâu đã trở
thành nơi thờ tự cần thiết trong đời sống tinh thần của con cháu dòng họ.
Nằm về phía Đông Nam của thành phố Đà Nẵng, trên tuyến đường giao
thông chính giữa Đà Nẵng và phố cổ Hội An của tỉnh Quảng Nam, quận Ngũ
Hành Sơn có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế, các loại hình du
lịch và văn hóa. Ngoài danh thắng Ngũ Hành Sơn được nhà nước xếp hạng di
tích lịch sử quốc gia, di tích cách mạng K20, đình làng Khuê Bắc... Quận Ngũ
Hành Sơn còn có nhiều nhà thờ tộc được xếp hạng di tích lịch sử cấp thành
phố. Các nhà thờ tộc ở địa bàn quận Ngũ Hành Sơn là nơi lưu giữ gia phả,
văn tự cổ với những sắc phong, tượng thờ, bài vị cùng những điển tích về các
dòng họ và những di vật của tổ tiên. Đây có thể được coi như một bảo tàng
thu nhỏ của dòng họ, bởi nó không chỉ chứa đựng rất nhiều thông tin về dòng
họ mà còn cả lịch sử quá trình khai phá đất đai của quận Ngũ Hành Sơn. Để
tìm hiểu đặc điểm, ý nghĩa và giá trị của nhà thờ tộc trong quá khứ, hiện tại và
tương lai, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu nhà thờ tộc trên địa
bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Để đáp ứng nhu cầu thờ cúng tổ tiên, thể hiện đạo lý uống nước nhớ
nguồn, ở Việt Nam có một hệ thống các công trình thờ tự đa đạng. Trong đó,
nhà thờ tộc là một loại hình kiến trúc có những nét đặc sắc riêng biệt về tôn
giáo, tín ngưỡng, khác với đình, chùa, miếu, mạo. Đề cập tới vấn đề này đã có
một số các công trình nghiên cứu sau:
Trong cuốn Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính đã cho chúng ta một cái
nhìn khái quát về sự ra đời cũng như các hình thái cơ bản của nhà thờ tộc:
“Bao nhiêu con cháu dòng dõi trong một họ lập chung một nhà thờ Thủy tổ
gọi là mỗ tộc (Trần tộc, Nguyễn tộc) từ đường. Nhà thờ ấy chỉ thờ riêng Thủy
tổ, và khi tế tự thì lấy các tổ tông biệt chi, biệt phái mà phối hưởng. Có họ
không có nhà thờ thì xây một cái bàn lộ thiên, dựng bia đá ghi tên thủy hiệu
các tổ tiên để khi tế tự thì ra tại đó mà tế. Có họ thì làm nhà thờ để cho chi
trưởng nam đời đời giữ hương hỏa, chi trưởng tuyệt thì mới truyền sang chi
thứ. Có họ thì con cháu luân lưu thờ tổ ở nhà riêng của mình.” [1, Tr 21].
Cũng bàn về xuất xứ và quy mô của nhà thờ tộc, Chu Huy cho biết: “Tuy làng
có nhiều họ nhưng chỉ những dòng họ lớn, lâu đời hoặc có người tài giỏi,
danh vọng mới có thể xây dựng nhà thờ họ. Hầu hết các nhà thờ họ đều được
coi là một trong những công trình kiến trúc tín ngưỡng làng xã. Đối với các
họ nhỏ, nhà thờ họ chính là ngôi nhà ông tộc trưởng” [5, Tr 29]. Cuốn Kể
chuyện phong tục Việt Nam lại cho ta thêm một cái nhìn mới về sự ra đời của
nhà thờ tộc: “Từng người có gia đình nhà thờ riêng bố mẹ, anh em, chị em
của mình. Còn có nhiều người có anh em, chị em, rồi truy cho cùng thì có
những ông tổ của dòng họ. Ông sinh ra nhiều con, mỗi con lập gia đình riêng
và truyền đi, nối tiếp nhau... nhưng tất cả đều nhớ đến vị tổ lâu đời của dòng
họ mình. Họ chung nhau lập ra nhà thờ họ. Nhiều nhà thờ họ rất nguy nga,
bề thế.” [6, Tr 101].
Cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm, tuy không nêu cụ
thể quá trình hình thành, quy mô, loại hình của các nhà thờ tộc, nhưng nó lại
cung cấp cho chúng ta biết được giá trị của nhà thờ tộc và dòng họ trong cộng
đồng người Việt: “Đối với người Việt Nam, gia tộc trở thành một cộng đồng
gắn bó có vai trò quan trọng , thậm chí còn cao hơn cả gia đình: họ rất coi
trọng các khái niệm liên quan đến gia tộc như trưởng họ, tộc trưởng, nhà thờ
họ, từ đường, gia phả, giỗ họ, giỗ tổ, mừng thọ...” [8, Tr 89]. Cũng bàn về vai
trò của dòng họ, GS. Phan Đại Doãn cho rằng: “Chính dòng họ đã góp phần
bảo lưu bản sắc văn hóa truyền thống: gia đình giữ hiếu đễ, học hành, xóm
làng hài hòa, ổn định. Đạo thờ cúng tổ tiên và đạo đức tôn trọng người già là
góp phần củng cố quan hệ cộng đồng, gìn giữ quan niệm uống nước nhớ
nguồn. Chính những việc làm như việc lập gia phả, lập gia huấn, thờ cúng
ông bà tổ tiên được tổ chức thường xuyên càng làm cho ý thức cộng đồng
ngày càng bền vững.” [2, Tr 184, 185]
Mang trong mình những giá trị to lớn như vậy, nhưng trải qua biến
động của chiến tranh, việc tìm lại dòng tộc, tổ tiên và xây dựng lại các nhà thờ
tộc đã bị tàng phá trở nên bức thiết. Trong cuốn Kể chuyện phong tục Việt
Nam, Vũ Ngọc Khánh cho biết: “Những năm gần đây, phong trào sưu tầm
nghiên cứu về các họ trong nước ta rất là sôi nổi. Các họ Nguyễn, họ Vũ, họ
Hồ, họ Đỗ... (còn rất nhiều) đã viết được về các dòng họ của mình. Điều ấy
càng chứng tỏ hướng đi tìm tổ tiên của các gia tộc là rất thiết tha và rất
thường trực.” [6, Tr 102]
Nhìn chung, tuy những công trình trên không nêu cụ thể về nhà thờ tộc
trên địa bàn chúng tôi nghiên cứu, nhưng nó đã cung cấp một cái nhìn khái
quát, khá toàn diện về nhà thờ tộc và tộc họ ở Việt Nam. Đồng thời, các công
trình ấy cũng là cơ sở lý luận vững chắc để chúng tôi triển khai và thực hiện
đề tài nghiên cứu của mình.
Trong phạm vi hẹp thành phố Đà Nẵng, việc nghiên cứu về các nhà thờ
tộc đã được thực hiện, tuy nhiên số lượng chưa nhiều. Trong cuốn Văn hóa xứ
Quảng một góc nhìn, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một cái nhìn tổng thể về
nhà thờ chư phái tộc Hải Châu, đó là di tích lịch sử - văn hóa gắn liền với lịch
sử hình thành và phát triển của thành phố Đà Nẵng. Nhà nghiên cứu Hồ Tấn
Tuấn cũng đã có một bài nghiên cứu về nhà thờ tộc Huỳnh trên địa bàn quận
Ngũ Hành Sơn. Nhìn chung, số lượng các công trình nghiên cứu về nhà thờ
tộc còn hạn chế và tất cả các công trình ấy chưa đi vào nghiên cứu nhà thờ tộc
với tư cách là đối tượng cụ thể, ngoại trừ nhà thờ tộc Huỳnh do Hồ Tấn Tuấn
nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa các tài liệu đã có, chúng tôi mạnh dạn chọn đề
tài này để nghiên cứu, nhằm góp phần vào việc nhận tri đầy đủ hơn diện mạo
của nhà thờ tộc trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu di tích nhà thờ tộc trên địa
bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu nhà thờ tộc trên địa bàn quận Ngũ
Hành Sơn với một số nét chính như: cơ sở hình thành văn hóa dòng họ và nhà
thờ tộc, những đặc điểm (địa bàn phân bố, niên đại hình thành, kiến trúc, sinh
hoạt văn hóa, tín ngưỡng), giá trị (tâm linh, văn hóa, nghệ thuật). Đồng thời
nêu lên hiện trạng cũng như phương hướng gìn giữ, bảo tồn và phát huy nhà
thờ tộc.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp như:
- Phương pháp điền dã
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp thống kê, so sánh
- Phương pháp phân tích, tổng hợp...
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận
gồm có những phần chính sau:
Chương Một: Ngũ Hành Sơn với văn hóa dòng họ