Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

TIỂU THUYẾT VỀ CHIẾN TRANH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975- NHỮNG KHUYNH HƯỚNG VÀ SỰ ĐỔI MỚI NGHỆ
PREMIUM
Số trang
214
Kích thước
1.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1023

TIỂU THUYẾT VỀ CHIẾN TRANH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975- NHỮNG KHUYNH HƯỚNG VÀ SỰ ĐỔI MỚI NGHỆ

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

Bé GI¸O DôC Vμ §μO T¹O

TR¦êNG §¹I HäC S¦ PH¹M Hμ NéI

----------

NguyÔn thÞ thanh

TIÓU THUYÕT VÒ CHIÕN TRANH TRONG V¡N HäC

VIÖT NAM SAU 1975 – NH÷NG KHUYNH H¦íNG

Vμ Sù §æI MíI NGHÖ THUËT

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam

Mã số : 62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Hμ NéI – 2012

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, từ 1945 đến 1975, văn học

Việt Nam phải gánh vác một trọng trách nặng nề mà hai cuộc kháng chiến

giành độc lập dân tộc giao phó: tuyên truyền, cổ vũ chiến đấu. Sau năm 1975,

tuy không còn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu như giai đoạn 1945 - 1975

nhưng đề tài chiến tranh vẫn được các nhà văn, nhất là những nhà văn mặc áo

lính chú ý khai thác. Khi tiếp tục viết về đề tài này, họ đã sáng tạo được nhiều

tác phẩm để lại dấu ấn trong lòng người đọc. Suốt ba mươi năm kháng chiến

chống ngoại xâm, tiểu thuyết về chiến tranh đã góp phần quan trọng vào việc

hình thành diện mạo nền văn học dân tộc. Sau 1975, trên tinh thần đổi mới tư

duy nghệ thuật, tiểu thuyết về chiến tranh vẫn tiếp tục phát triển và góp phần

không nhỏ vào sự đổi mới thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam.

1.2. Từ 1975 tới nay, tiểu thuyết Việt Nam nói chung đã đạt được nhiều

thành tựu: phong phú về số lượng tác phẩm, đa dạng về khuynh hướng thẩm mĩ

với những cách tân nghệ thuật táo bạo. Do đó, việc nhận diện sự vận động của

văn học Việt Nam sau 1975 qua thể loại tiểu thuyết là cần thiết đối với công

việc nghiên cứu văn học sử. Song trong khuôn khổ luận án, người nghiên cứu

không thể bao quát thấu đáo toàn bộ thực tiễn thể loại, cho nên chúng tôi chỉ

giới hạn ở một bộ phận tiêu biểu – tiểu thuyết về chiến tranh. Trên cơ sở nắm

bắt các khuynh hướng chính và những đổi mới nghệ thuật của bộ phận tiểu

thuyết tiêu biểu này, luận án sẽ chỉ ra đặc điểm của tư duy thể loại, đồng thời

trực tiếp đề cập tới hai vấn đề của lí luận và văn học sử: có thể viết về chiến

tranh như thế nào và có thể viết tiểu thuyết như thế nào?

1.3. Trong các trường Đại học và Cao đẳng có chuyên ngành Ngữ văn,

người học không thể bỏ qua phần văn học Việt Nam đương đại, một phần vì

đây là giai đoạn văn học sôi nổi, có nhiều cách tân đáng chú ý; phần nữa là từ

3

quan điểm đổi mới, văn học hôm nay đặt ra vấn đề nhìn nhận, đánh giá lại

nhiều hiện tượng trong quá khứ. Những kết quả nghiên cứu đã có vẫn cần

được tiếp tục mở rộng, đào sâu để phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ giáo dục và

đào tạo. Cho nên, việc nghiên cứu diễn tiến của thể loại qua bộ phận tiểu

thuyết về chiến tranh sẽ đáp ứng thiết thực nhiệm vụ giảng dạy và học tập

trong nhà trường.

Trên đây là những lí do để chúng tôi chọn đề tài Tiểu thuyết về chiến

tranh trong văn học Việt Nam sau 1975 – Những khuynh hướng và sự đổi

mới nghệ thuật.

2. Lịch sử vấn đề

Cho đến nay đã có khá nhiều bài báo và công trình khoa học nghiên

cứu về tiểu thuyết chiến tranh ở Việt Nam sau 1975. Về cơ bản, có thể thấy

việc nghiên cứu được diễn tiến theo hai chặng: Từ năm 1975 đến khoảng cuối

thập kỉ 80 và khoảng từ đầu thập kỉ 90 tới nay.

2.1. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh từ 1975 đến khoảng

cuối thập kỉ 80.

Từ năm 1975 đến khoảng cuối thập kỉ 80, do sáng tác chưa thật sự có

đột phá, việc nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh thường ở quy mô nhỏ,

trong phạm vi các bài báo, các bài điểm sách hay các nhận xét tạt ngang. Bên

cạnh một vài bài dưới dạng điểm sách (ví dụ: Sao Mai và một số vấn đề của

tiểu thuyết của Ngô Thảo), các bài báo chủ yếu xoay quanh các câu hỏi: Phản

ánh chiến tranh như thế nào là chân thực? Giải quyết mối quan hệ giữa con

người và sự kiện lịch sử ra sao? Sang thập kỉ 80, việc nghiên cứu đã có khởi

sắc. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng một số tiểu thuyết đã “phản ánh chân

thực hiện thực chiến tranh cách mạng” [162, tr.110], đã “đánh giá sự kiện và

con người một cách sâu sắc hơn, nhìn cuộc chiến tranh một cách toàn diện và

bao quát hơn” [39, tr.111]. Theo Bùi Việt Thắng, “Khuynh hướng phân tích

4

hiện thực chiến tranh, mối quan hệ của nó với con người là dễ nhận thấy

trong các tiểu thuyết Đất trắng, Cửa gió, Năm 1975 họ đã sống như thế, Họ

cùng thời với những ai, Đất không giấu mặt... Chính việc phân tích sự kiện

lịch sử và tâm lí con người trong chiến tranh, mối quan hệ giữa con người và

chiến tranh làm cho tiểu thuyết sau 1975 có một diện mạo mới” [172, tr.121].

Các nhà nghiên cứu cũng ghi nhận chất lượng nghệ thuật của một số

tiểu thuyết về phương diện xây dựng nhân vật, về việc sử dụng điểm nhìn trần

thuật... Bùi Việt Thắng nhận xét: “Trong xây dựng nhân vật người chiến sĩ,

tiểu thuyết sau 1975 đã có hướng đi sâu vào miêu tả quá trình tâm lí nhằm cá

thể hóa nhân vật” [172, tr.121-122]. Lại Nguyên Ân cũng có ý kiến khá sắc

sảo về nghệ thuật kể chuyện của Chu Văn trong Sao đổi ngôi: “Với Sao đổi

ngôi, Chu Văn dùng “thủ pháp trao quyền kể chuyện” cho nhân vật (câu

chuyện do nhân vật chính xưng “tôi” kể lại) đã khiến cho tác phẩm vừa có

cốt cách dân gian vừa giữ được những đường nét chính của tiểu thuyết hiện

đại” [2, tr.16].

Không chỉ ghi nhận những thành tựu ban đầu, một số người còn chỉ ra

mặt hạn chế của tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975. Trong bài Viết về chiến

tranh (1978), Nguyễn Minh Châu đã thẳng thắn nhận xét: “Nhìn lại những

tác phẩm viết về chiến tranh của ta, các nhân vật thường khi có khuynh

hướng được mô tả một chiểu, thường là quá tốt, chưa thực” [22, tr.57], “nhân

vật chỉ đóng vai trò làm đường dây để xâu các sự kiện lại với nhau”, “nhân

vật vẫn mờ nhạt” [22, tr.53]. Còn Lại Nguyên Ân thì thấy: “Ở nhiều cuốn

tiểu thuyết thiên về chiều rộng trong văn học ta, nhiều trường hợp có thể thấy

cốt truyện đa tuyến chưa được triển khai đến mức cần thiết đã bị “teo” lại, bị

thu vào cốt truyện đơn tuyến, bút pháp tự sự khách quan bị lấn át bởi bút

pháp biểu hiện trữ tình, những mảng đời sống được dàn ra (do ý đồ tạo nên

chiều rộng của bức toàn cảnh hoành tráng) thiếu sự “kết dính” vào một chỉnh

5

thể, trở nên chơi vơi, gây cảm quan về sự hời hợt, vụn vặt, làm hại đến chính

tính hoành tráng của tác phẩm” [3, tr.126]. Đánh giá về Đất miền Đông,

Trần Đăng Xuyền cho rằng: “Đất miền Đông đòi hỏi người viết đào sâu hơn

nữa vào hiện thực, dựng lại những số phận, đặt ra được những vấn đề thuộc

về con người trong chiến tranh. Nó đòi hỏi một cái nhìn khái quát nghệ thuật

điển hình hóa cao hơn nữa. Nó còn thiếu cái nhìn nhiều chiều, sắc sảo của

một nhà tiểu thuyết” [207, tr.126]. Nhưng phải đến thời kì đổi mới, với tinh

thần nhìn thẳng vào sự thật, giới nghiên cứu mới đưa ra những nhận xét thẳng

thắn về hạn chế của văn học chiến tranh. Đây là ý kiến của Trần Việt Dũng:

“Các tác phẩm viết về chiến trường thực ra chỉ phô bày sự hiểu biết về chiến

trường, kể chuyện chiến trường hơn là thể hiện một thái độ rất tôi của tác giả.

Không có cá tính, đúng hơn là chối bỏ cá tính, chối bỏ quan niệm riêng của

mình trước hiện thực là một trong những nguyên nhân tạo nên tình trạng yếu

kém của các tác phẩm văn học của ta.” [34, tr.129].

Theo chúng tôi, hai bài Thử nhìn lại văn xuôi mười năm qua của Lại

Nguyên Ân và Về một vài hướng tiếp cận với đề tài chiến tranh của Trần

Cương đã đạt được mức độ khái quát nhất định. Trong Thử nhìn lại văn xuôi

mười năm qua, Lại Nguyên Ân trình bày ngắn gọn nhưng tương đối đầy đủ

về sự phát triển của tiểu thuyết chiến tranh trong khoảng thời gian từ 1975

đến 1985. Ông cho rằng “cảm giác cùng thời” là nét nhất quán ở các tác

phẩm mà những tập đầu được viết ngay trong chiến tranh (Vùng trời, Những

tầm cao, Dòng sông phẳng lặng), hoặc những tác phẩm tuy xuất bản sau 1975

nhưng đã được dự kiến từ trước (Sao Mai của Dũng Hà, Biển gọi của Hồ

Phương, Lửa từ những ngôi nhà của Nguyễn Minh Châu, Mở rừng của Lê

Lựu, Thung lũng thử thách của Thái Bá Lợi, Cửa gió của Xuân Đức, Những

người báo bão của Vân Thảo,…), “Do vậy cảm hứng ngợi ca và cổ vũ chiến

công là nét nhất quán ở tất cả các sáng tác này” [2, tr.15]. Bên cạnh đó,

6

nhiều nhà văn đã có “ý thức về khoảng cách” và ý thức ấy đã “dẫn tới những

cách xử lí khác nhau”; có “một số tác phẩm đã được xây dựng theo hướng

tiểu thuyết hóa các sự kiện thực, tuy vậy tính chất tư liệu vẫn là nét đậm”; có

tác giả “cố gắng dựng lại những trang sử hiện đại bằng ngôn ngữ tiểu

thuyết”; trường hợp của tiểu thuyết Sao đổi ngôi thể hiện “khả năng kể về

cuộc chiến đấu đã qua từ góc độ ý thức dân gian, ý thức của đám đông lính

thường và dân thường đã trải qua những ngày kháng chiến” [2, tr.16].

Trong bài Về một vài hướng tiếp cận với đề tài chiến tranh, Trần Cương

chỉ ra hai hướng tiếp cận của văn học sau năm 1975. Hướng tiếp cận trực tiếp

có thể kể tới “Ký sự miền đất lửa, Biển gọi, Năm 1975 họ đã sống như thế,

Nắng đồng bằng, Miền cháy, Rừng lá đỏ, Đất trắng, Đất miền Đông...”. Theo

ông, ở đây, “hướng tiếp cận chủ yếu vẫn là lí giải chiến tranh, tiếp tục ngợi ca

khẳng định, và nay trong điều kiện hòa bình, còn có thêm một khía cạnh nữa là

“tính sổ”. Trong số những tác phẩm này và nhiều tác phẩm khác nữa, diện

mạo chiến tranh đã được vẽ thêm nhiều nét bút mới” [25, tr.40]. Hướng tiếp

cận thứ hai là: “Thể hiện đề tài chiến tranh một cách không trực tiếp (nghĩa là

có đan cài bổ sung giữa đề tài chiến tranh và các đề tài khác)” [25, tr.46]. Ở

hướng tiếp cận không trực tiếp, nhiều nhà văn “đều có chung ý nghĩ là tìm về

với cái muôn đời – tức là các giá trị nhân bản đích thực, cụ thể - có cội rễ sâu

xa từ trong đời sống Nhân dân và lịch sử Dân tộc”. Đó là một trong những yếu

tố làm nên thành công cho tác phẩm, mà Sao đổi ngôi là một ví dụ: “Chu Văn

có một cái nhìn nhất quán, xuyên suốt, và cái nhìn này đã được triển khai trên

tất cả các bình diện của tác phẩm” [25, tr.42].

Khi phản ánh theo hướng không trực tiếp, nhà văn đã tìm được nhiều

khả năng linh hoạt để thể hiện chiến tranh: tiếp cận theo kiểu phê phán (Cái

kính – Nguyễn Minh Châu); hoặc tiếp cận theo “kiểu triết luận, tâm lí – xã

hội sau chiến tranh”; hoặc tiếp cận theo kiểu Phía Tây không có gì lạ: “là

7

một cách thức phản đối chiến tranh” [25, tr.45]. Với bài viết này, Trần

Cương vừa tổng kết sơ bộ các hướng tiếp cận vừa đưa ra những dự báo khá

tinh và sắc về sự phát triển tương lai của văn học chiến tranh ở ta.

Tóm lại, trong khoảng hơn một thập kỉ sau 1975, việc nghiên cứu tiểu

thuyết về chiến tranh chưa có nhiều thành tựu nổi bật. Khi chú trọng nhiều

hơn đến nội dung tư tưởng tác phẩm, quan điểm của giới nghiên cứu khá

thống nhất; chỉ có một số ý kiến băn khoăn hoặc phê phán những trường hợp

“cá biệt” và “lạ” trên văn đàn (ví dụ: quan điểm của Trần Hữu Tá: “Việc một

số nhà văn nghiêng về thể hiện những “số phận cá nhân” mà làm mờ đi “vận

mệnh dân tộc” là hiện tượng cần uốn nắn” [162, tr.122]). Từ giữa thập kỉ 80,

ý kiến về tiểu thuyết chiến tranh bắt đầu phong phú và sâu sắc hơn (Sao đổi

ngôi của Chu Văn được một số người đánh giá cao nhưng Nguyễn Văn Lưu

lại cho rằng: “Cái nhìn về chiến tranh và người lính như vậy mới chỉ là cái bề

ngoài, là cái dễ nhìn, còn rất xa bản chất” [107, tr.112]). Phải chăng, nguyên

nhân của tình hình trên là và do văn học còn “tình trạng nghèo nàn” (Nguyên

Ngọc), tiểu thuyết về chiến tranh chưa có thành tựu nổi bật và do đặc điểm

chung trong tiếp nhận văn học một thời?

2.2. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh từ đầu thập kỉ 90

đến nay

Từ đầu thập kỉ 90 trở đi, cùng với những thành tựu của sáng tác, lí luận,

nghiên cứu, phê bình văn học cũng thực sự khởi sắc. Giới nghiên cứu đã đổi

mới phương pháp tiếp cận, chú ý nhiều hơn tới giá trị nhân văn, ý nghĩa nhân

bản và chức năng thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Việc nghiên cứu tiểu thuyết

về chiến tranh cũng không nằm ngoài tình hình chung ấy.

Qua các bài báo có tính chất điểm sách (Thảo luận về tiểu thuyết Thân

phận của tình yêu [134], Tọa đàm về tiểu thuyết Lạc rừng của Trung Trung

Đỉnh [135], Rừng thiêng nước trong, một tiểu thuyết hay về chiến tranh [120],

8

Những bức tường lửa và sự đổi mới tiểu thuyết sử thi [198], Xu hướng phá vỡ

cấu trúc nhân vật sử thi truyền thống trong Thượng Đức [199], Tiếng khóc

của nàng Út – Tiếng khóc của một thời [6],…), chúng tôi nhận thấy tính kịp

thời trong việc nghiên cứu, phê bình tiểu thuyết về chiến tranh.

Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu mang tầm khái

quát ở các cấp độ khác nhau. Những bài viết về một chặng phát triển của tiểu

thuyết chiến tranh có thể kể tới: Qua những cuốn sách gần đây về chiến tranh

[118], Văn học Việt Nam về chiến tranh – Hai giai đoạn của sự phát triển

[32], Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang sau

1975 – những thành tựu nghệ thuật còn bị bỏ lỡ [205], Một cách nhìn về đổi

mới tiểu thuyết chiến tranh [92], Một hình dung về quá trình phát triển của

tiểu thuyết sử thi Việt Nam từ 1945 đến nay [197],...

Trong Qua những cuốn sách gần đây về chiến tranh, khi khảo sát về

Nước mắt đỏ, Chim én bay, Không phải trò đùa, Vòng tròn bội bạc, Âm vang

chiến tranh, Lê Thành Nghị thấy rằng “một mô típ có ý nghĩa đáng kể, nơi để

nhà văn có dịp bộc lộ tư tưởng thẩm mĩ của mình là mô típ con người về từ

chiến trường trước thử thách mới” [118, tr.115].

Trong Văn xuôi về chiến tranh – Hai giai đoạn của sự phát triển, Đinh

Xuân Dũng cho rằng từ khoảng đầu thập kỉ tám mươi đến giữa thập kỉ chín

mươi, văn xuôi về chiến tranh đang tồn tại đồng thời ba xu hướng:

“Một số tác giả, đặc biệt những nhà văn đã quen và nhiều năm viết

về chiến tranh trong chiến tranh, vẫn giữ lại “tạng” viết của mình, ít có sự

đổi mới...

Một số nhà văn khác, (…) đã cho ra đời những tác phẩm viết về chiến

tranh theo khuynh hướng nhìn méo hiện thực, chỉ tập trung đi tìm những cái

mất mát, đau thương, bi thảm, éo le, độc ác, lố bịch xảy ra trong chiến tranh,

để từ đó, cho là toàn bộ hiện thực chiến tranh.

9

Khuynh hướng chính của sự phát triển, (...) đó là khả năng phân tích,

bình giá và mổ xẻ hiện thực đa chiều của chiến tranh, đó là sự phân tích mối

quan hệ cự kì phức tạp giữa số phận từng con người với biến cố chiến tranh,

đó là năng lực khám phá và đặt ra những vấn đề nóng bỏng nhất trong chiến

tranh và sau chiến tranh do tác động dai dẳng của chiến tranh trong đời sống

của từng cá nhân và của toàn xã hội” [32, tr.94-95].

Trong bài Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ

trang sau 1975 – những thành tựu nghệ thuật còn bị bỏ lỡ, Nguyễn Thiệu Vũ

đưa ra ba nhận xét khá sắc sảo:

1. Sau 1975, các nhà tiểu thuyết đã nỗ lực mở rộng phạm vi hiện thực

phản ánh nhưng chưa có đủ sự táo bạo cần thiết cho việc phát huy trí

tưởng tượng và giải phóng những mãnh lực của hư cấu nghệ thuật

[205, tr.105].

2. Cố gắng tạo dựng những tính cách những số phận độc đáo, đặc biệt

nhưng còn tự giam mình trong những quan niệm nghệ thuật về con

người chưa thoát khỏi tính chất giản đơn, nhất phiến [205, tr.106].

3. Đã ưu tiên cho việc phận tích tâm lí nhưng chưa thực sự dám đối diện

với những bí hiểm của tâm hồn con người [205, tr.107-108].

Trong Một cách nhìn về đổi mới tiểu thuyết chiến tranh, thông qua việc

khảo sát một số tiểu thuyết chiến tranh ra đời vào đầu thế kỉ XXI (Bến đò xưa

lặng lẽ, Rừng thiêng nước trong, Ngày rất dài, Những bức tường lửa, Khúc bi

tráng cuối cùng), Tôn Phương Lan kết luận: “Như vậy, với điểm nhìn mới,

những sáng tác viết về chiến tranh trong những năm gần đây cho chúng ta

thấy được sự đổi mới của nó: cái ác liệt của chiến tranh đã được nhìn sâu vào

bản chất. Chúng ta dễ nhận ra việc đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới cách

nhìn là cơ sở quan trọng để có được sự đa dạng về phong cách và giọng điệu

với nhiều phương thức biểu hiện mới mà trước đó chưa có, như sử dụng hiện

10

thực tâm linh, yếu tố kì ảo, dòng ý thức... Nhưng trong văn xuôi viết về chiến

tranh, kĩ thuật đó chưa được áp dụng nhiều” [92].

Trong Một hình dung về quá trình phát triển của tiểu thuyết sử thi Việt

Nam từ 1945 đến nay, Nguyễn Thanh Tú nhận xét: “Có thể hình dung quá

trình phát triển của tiểu thuyết sử thi Việt Nam từ 1945 đến nay như một dao

động hình sin, điểm bắt đầu là Xung kích, Con trâu, Vùng mỏ..., lên cao với

Đất nước đứng lên và cực đại là Dấu chân người lính... rồi đi xuống đến cực

tiểu là Nỗi buồn chiến tranh... và đi lên với Đất trắng, Chim én bay, Ăn mày

dĩ vãng, Ngày rất dài, Những bức tường lửa, Thượng Đức, Xiêng Khoảng mù

sương, Xuân Lộc… sự hình dung này chỉ căn cứ vào tính chất thể loại xem xét

chất sử thi đậm nhạt khác nhau chứ không căn cứ vào giá trị của tác phẩm”

[197, tr.100].

Không chỉ viết về một chặng phát triển của tiểu thuyết chiến tranh, giới

nghiên cứu còn đánh giá về sự nghiệp sáng tác của một tác giả. Ví dụ: Đề tài

chiến tranh trong tiểu thuyết của Chu Lai (2004) của Phạm Thúy Hằng, Nhân

vật người lính trong tiểu thuyết Khuất Quang Thụy (2008) của Đinh Thanh

Hương, Thái Bá Lợi với tiểu thuyết viết về chiến tranh sau năm 1975 (2009)

của Phạm Phú Phong,...

Có nhà nghiên cứu còn bàn bạc đến những vấn đề khá mới của văn học

Việt Nam: vấn đề tình dục. Sau khi phân tích các vấn đề Chiến tranh, tình

yêu, tình dục trong văn học Việt Nam đương đại qua một số tác phẩm của

Nguyễn Minh Châu, Võ Thị Hảo, Dương Hướng, Võ Thị Xuân Hà, Bảo Ninh,

Đoàn Cầm Thi kết luận: “Các tác giả đều tập trung phân tích những tổn thất

do chiến tranh gây ra về mặt tình yêu và tình dục. (...) khi viết về bi kịch cá

nhân trong và sau chiến tranh, các nhà văn Việt đã linh cảm được vai trò

thiết yếu của vô thức, của giấc mộng, của ám ảnh nhục dục trong tâm lý con

người” [175]. Với bài Dục vọng trong tiểu thuyết Việt Nam về chiến tranh từ

11

1986 đến 1996, Nguyễn Thị Xuân Dung tìm hiểu về vấn đề tình dục trong các

tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh),

Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập), Bến không chồng (Dương

Hướng) và đưa ra nhận xét: “Trong tiểu thuyết viết về chiến tranh từ 1986 –

1996, ta thấy hầu như tác phẩm nào cũng có đề cập đến chuyện bản năng,

tình yêu - tình dục của con người và thể hiện nó một cách tự nhiên, chân thực.

Điều đó càng phản ánh rõ hơn bộ mặt trần trụi của chiến tranh và số phận

khốc liệt của con người trong hiện thực tàn bạo ấy, qua đó hợp lí hóa đời

sống bản năng của con người, đề cao nó trong một tinh thần nhân văn cao

đẹp; lên án, phê phán chiến tranh là một thế lực phi nhân tính đã tước đoạt,

cướp mất của con người quyền được sống với chính những nhu cầu bình

thường và thiết yếu của họ” [28]. Theo chúng tôi, đây là những nhận xét

tương đối mới mẻ.

Thời gian gần đây, một số luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu một vài

phương diện của tiểu thuyết về chiến tranh: Quan niệm nghệ thuật về con

người trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 (2003) của Nguyễn Thị Ngọc

Diệp, Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu về chiến tranh sau

1975 (2004) của Bùi Thị Hường, Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh Việt Nam

2004 – 2008 (2009) của Nguyễn Thị Duyên,... Bên cạnh đó, một số tiểu thuyết

tiêu biểu về chiến tranh cũng là đối tượng khảo sát của các luận án tiến sĩ như

Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 (Khảo sát trên

những nét lớn) (1996) của Nguyễn Thị Bình, Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương

đại Việt Nam (2006) của Bùi Thanh Truyền, Những cách tân nghệ thuật trong

tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1996-2006 (2008) của Mai Hải Oanh,...

Nhìn chung, việc nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh đã đạt được

những thành tựu đáng kể. Có được những thành tựu đó là nhờ sự đổi mới của

sáng tác và phê bình nói chung. Song mặt khác cũng cần ghi nhận sự nỗ lực

12

của giới nghiên cứu trong việc cập nhật những thành tựu lí luận phê bình hiện

đại để tìm hiểu tiểu thuyết về chiến tranh trong hơn ba thập kỉ vừa qua.

Nhìn lại tình hình nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh từ sau 1975,

chúng tôi thấy nổi lên các vấn đề sau:

a. Về phương diện tư liệu được khảo sát: Tiểu thuyết về chiến tranh chủ

yếu được xem xét ở cấp độ một vấn đề nhỏ, lẻ vừa quy mô bài báo. Ở cấp độ

luận văn, giới nghiên cứu chỉ khảo sát một chặng khoảng vài năm phát triển

của nó. Cho đến nay, chưa có công trình nào thực sự khảo sát phạm vi tư liệu

trong suốt hơn ba mươi năm qua.

b. Về nội dung khảo sát:

- Giới nghiên cứu đã quan tâm tới những khía cạnh khác nhau nhưng

chưa có công trình nào hướng tới mục đích khái quát các khuynh hướng của

tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975.

- Tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975 cũng được tìm hiểu ít nhiều ở các

phương diện như nghệ thuật xây dựng nhân vật, kết cấu tác phẩm, song chưa

có công trình nào nghiên cứu tổng thể về sự đổi mới nghệ thuật của mảng tiểu

thuyết này.

Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách

hệ thống các khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật của tiểu thuyết về chiến

tranh trong văn học Việt Nam sau 1975, song vấn đề này đã được xem xét ở

một số cấp độ. Luận án sẽ tiếp thu thành quả của người đi trước để đạt tới

mục tiêu của mình.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Trước 1975, nhà văn Việt Nam luôn đề cao mục đích tái hiện các cuộc

chiến tranh giữ nước của dân tộc. Song sau 1975, không ít người coi chiến

tranh chỉ là phương tiện nghệ thuật chứ không phải mục đích phản ánh của tác

13

phẩm. Dựa trên cả hai đối tượng của nghệ thuật là hiện thực và con người,

chúng tôi sẽ xếp vào đề tài chiến tranh những tiểu thuyết có một trong các tiêu

chí sau:

- Hiện thực chiến tranh được tái hiện như một nội dung cơ bản của tác

phẩm (có thể trực tiếp hoặc gián tiếp qua hồi ức nhân vật).

- Nhân vật chính của tác phẩm là người lính chiến đấu trên các mặt trận

khác nhau, hoặc là người thanh niên xung phong phục vụ chiến trường, hoặc

là những nạn nhân trực tiếp của chiến tranh.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Do hạn chế về nguồn tư liệu và sự phức tạp trong việc tiếp nhận một

đề tài có tính chất truyền thống trong văn học Việt Nam từ 1945 tới nay,

chúng tôi chỉ lựa chọn những tiểu thuyết được công bố trong nước từ 1975

đến 2009, còn những tiểu thuyết xuất bản ở hải ngoại sẽ không nằm trong

phạm vi khảo sát của luận án; khi đặt đối tượng nghiên cứu trong thế đối sánh

với tiểu thuyết trước 1975 để nhận diện cái mới, chúng tôi chỉ dẫn các tác

phẩm ở khu vực chính thống, chứ không dẫn các tác phẩm xuất bản ở miền

Nam trước 1975.

- Với một phạm vi tư liệu như trên, chúng tôi ưu tiên cho tác phẩm gây

được sự chú ý của dư luận, tiếp đến là một số tác phẩm tuy chưa được quan

tâm nhưng thực sự có ý nghĩa với đề tài. Còn những tiểu thuyết ra đời vào đầu

thế kỉ XXI, vì chưa có đủ độ lùi thời gian cần thiết để đưa ra một cái nhìn sâu

sắc nên chúng tôi chỉ chọn khảo sát sơ bộ một số tác phẩm đã nhận được các

giải thưởng văn học để thấy mạch vận động của thể loại đang diễn tiến thế nào.

4. Quan niệm về đề tài

4.1. Chúng tôi cho rằng nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh thực chất

là nghiên cứu cách ứng xử với chất liệu, trong đó bao gồm quan niệm của

người viết về hiện thực và về tiểu thuyết. Mà chiến tranh là một trạng thái đặc

14

biệt của đời sống hiện thực, cho nên luận án sẽ hướng tới mục đích nhận diện

những đặc điểm của tư duy thể loại qua một bộ phận tiểu thuyết cụ thể và thấy

được chất liệu chiến tranh – một chất liệu quen thuộc của văn học Việt Nam –

từ sau 1975 đã được các nhà văn làm mới như thế nào.

4.2. Theo quan niệm của M.Bakhtin – một quan niệm hiện được tín

nhiệm nhiều nhất – tiểu thuyết có những đặc trưng cơ bản để phân biệt với

các thể loại đã rắn chắc về nòng cốt nhưng ông không đặt vấn đề phân biệt

tiểu thuyết thuộc các đề tài (chất liệu) khác nhau. Luận án này không đặt

nhiệm vụ phân biệt tiểu thuyết viết về chiến tranh với tiểu thuyết sử dụng các

chất liệu khác, mà tập trung làm rõ tiến trình vận động của nó để khảo sát tư

duy thể loại. Cho nên, những khái quát ở tiểu thuyết về chiến tranh cũng có

thể tìm thấy ở tiểu thuyết về các đề tài khác.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp hệ thống – cấu trúc: Với phạm vi tư liệu trong suốt hơn

ba mươi năm, chúng tôi luôn ý thức đặt đối tượng nghiên cứu trong cả cái

nhìn đồng đại lẫn lịch đại. Chúng tôi sẽ thống kê những tiểu thuyết tiêu biểu

về chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1975, dùng các thao tác phân tích,

tổng hợp, sắp xếp chúng thành những nhóm nhất định, tạo thành hệ thống để

làm sáng tỏ vấn đề một cách toàn diện.

- Phương pháp loại hình: Phương pháp loại hình được sử dụng để nhận

diện các khuynh hướng tiểu thuyết viết về chiến tranh trong văn học Việt

Nam sau 1975 và phân tích sự đổi mới nghệ thuật của nó theo đặc trưng thể

loại văn học.

- Phương pháp so sánh: Tìm hiểu một thể loại viết về đề tài có tính chất

truyền thống của văn học, phương pháp so sánh đặc biệt quan trọng. Thông qua

phương pháp so sánh, luận án đặt đối tượng nghiên cứu trong mối tương quan

ít nhiều với văn học hiện đại về chiến tranh nói chung, song mục đích chủ yếu

15

mà chúng tôi hướng tới là chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt của tiểu

thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam trước và sau 1975.

- Phương pháp liên ngành: Trong luận án, chúng tôi luôn có ý thức vận

dụng những thành tựu của lí luận văn học, ngôn ngữ học, phân tâm học, triết

học và lịch sử để đạt tới mục đích nghiên cứu mà đề tài đã đặt ra.

6. Đóng góp của luận án

- Trên cơ sở cái nhìn bao quát văn học về chiến tranh sau 1945, luận án

đi sâu tìm hiểu ba khuynh hướng tiểu thuyết nổi bật, chỉ ra những tìm tòi thể

nghiệm nghệ thuật đa dạng cũng như những hạn chế của tiểu thuyết về chiến

tranh trong văn học Việt Nam sau 1975.

- Từ một bộ phận tiểu thuyết cụ thể, chúng tôi hi vọng góp phần làm

sáng tỏ đặc điểm tư duy thể loại tiểu thuyết trong quá trình vận động của văn

học Việt Nam sau 1975.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận án được triển khai thành

ba chương:

- Chương 1: Tiểu thuyết về chiến tranh trong tiến trình văn học Việt

Nam từ 1945 đến nay.

- Chương 2: Một số khuynh hướng tiểu thuyết về chiến tranh trong văn

học Việt Nam sau 1975.

- Chương 3: Sự đổi mới nghệ thuật của tiểu thuyết về chiến tranh trong

văn học Việt Nam sau 1975.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!