Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm theo luật hình sự Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỐ CHÍ MINH
PHÍ THỊ PHƯƠNG NHUNG
TỊCH THU VẬT, TIỀN
TRỰC TIẾP LIÊN QUAN ĐẾN TỘI PHẠM
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỐ CHÍ MINH
TỊCH THU VẬT, TIỀN
TRỰC TIẾP LIÊN QUAN ĐẾN TỘI PHẠM
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa
Học viên : Phí Thị Phương Nhung
Lớp : Cao học luật, An Giang, khóa 2
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi và tôi hoàn
toàn chịu trách nhiệm về nội dung khoa học của Luận văn này. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nào khác. Các số liệu, vụ
án và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phí Thị Phương Nhung
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS Bộ luật Dân sự
BLHS 2015 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
HĐTP Hội đồng Thẩm phán
HĐXX Hội đồng xét xử
Luật HN&GĐ Luật Hôn nhân và Gia đình
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TỊCH THU CÔNG CỤ, PHƯƠNG TIỆN DÙNG VÀO VIỆC
PHẠM TỘI................................................................................................................7
1.1. Lý luận và quy định của pháp luật hình sự về tịch thu công cụ, phương
tiện dùng vào việc phạm tội .................................................................................7
1.1.1. Lý luận về tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội...........7
1.1.2. Quy định của pháp luật hình sự về tịch thu công cụ, phương tiện dùng
vào việc phạm tội..............................................................................................11
1.2. Thực tiễn xét xử về tịch thu vật, tiền là công cụ, phương tiện dùng vào
việc phạm tội........................................................................................................15
1.2.1. Sử dụng công cụ, phương tiện vào việc thực hiện tội phạm với lỗi vô ý
..........................................................................................................................16
1.2.2. Xác định tài sản có phải là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội
hay không..........................................................................................................17
1.2.3. Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội là tài sản thuộc sở hữu
chung ................................................................................................................20
1.2.4. Xác định công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội có thuộc sở hữu
của người phạm tội hay không .........................................................................23
1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn xét xử về tịch thu vật,
tiền là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội và đề xuất, kiến nghị..25
Kết luận Chương 1 ..................................................................................................27
CHƯƠNG 2. TỊCH THU VẬT HOẶC TIỀN DO PHẠM TỘI HOẶC DO
MUA BÁN, ĐỔI CHÁC NHỮNG THỨ ẤY MÀ CÓ; KHOẢN THU LỢI BẤT
CHÍNH TỪ VIỆC PHẠM TỘI..............................................................................28
2.1. Lý luận và quy định của pháp luật hình sự về tịch thu vật hoặc tiền do
phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất
chính từ việc phạm tội ........................................................................................28
2.1.1. Lý luận về tịch thu vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác
những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội .......................28
2.1.2. Quy định của pháp luật hình sự về tịch thu vật hoặc tiền do phạm tội
hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ
việc phạm tội ....................................................................................................30
2.2. Thực tiễn xét xử về tịch thu vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán,
đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội......32
2.2.1. Không tịch thu tài sản do mua bán, đổi chác tài sản do phạm tội mà có
..........................................................................................................................32
2.2.2. Xác định số tiền bị tịch thu khác nhau trong một số vụ án điển hình ....33
2.2.3. Sử dụng không đúng thuật ngữ “thu lợi bất chính”...............................36
2.2.4. Tình huống về thu lợi bất chính..............................................................39
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn xét xử về tịch thu vật
hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có;
khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội và đề xuất, kiến nghị .....................40
Kết luận Chương 2 ..................................................................................................43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong vụ án mà xuất hiện công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, vật
hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi
bất chính từ việc phạm tội; vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành thì
biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm tất nhiên sẽ
được các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng quan tâm nghiên cứu
một cách kỹ lưỡng khi áp dụng. Thực tiễn xét xử, việc xác định và xử lý đối với
công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do
mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có, khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội có
sự nhầm lẫn, không đúng dẫn đến áp dụng không thống nhất; nội dung vụ án là
giống nhau nhưng có vụ án xác định đối tượng tịch thu là thu lợi bất chính từ việc
phạm tội, có vụ án xác định là vật, tiền do phạm tội mà có; thuật ngữ “thu lợi bất
chính” được sử dụng phổ biến khi chưa được quy định trong luật. Sở dĩ, có sự nhầm
lẫn, sai sót trên là do luật và các văn bản hướng dẫn không đưa ra khái niệm để làm
cơ sở xác định, xử lý các đối tượng này nên phụ thuộc vào chủ quan của người tiến
hành tố tụng, tùy nghi áp dụng. Tuy nhiên, nghiên cứu tất cả các biện pháp tư pháp
sẽ là một đề tài quá rộng đối với tác giả. Tác giả mong muốn dành phần lớn dung
lượng của luận văn để tập trung nghiên cứu chuyên sâu về một biện pháp tư pháp,
đó là tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm quy định tại Điều 47 BLHS
2015. Sở dĩ, tác giả chọn tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm để làm
đề tài nghiên cứu, bởi vì liên quan đến biện pháp tư pháp này, cả về lý luận, quy
định và thực tiễn xét xử còn nhiều bất cập. Về lý luận, việc xác định tịch thu công
cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua
bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội còn
nhiều quan điểm chưa thống nhất. Về quy định, BLHS 2015 quy định tịch thu công
cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua
bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội nhưng
không đưa ra khái niệm, hướng dẫn để phân biệt giữa các đối tượng. Bên cạnh đó,
lời văn quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 BLHS 2015 gây lúng túng
trong cách hiểu, chưa có những quy định nhằm xác định chính xác công cụ, phương
tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác
những thứ ấy mà có, khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội làm căn cứ để tịch
2
thu. Về thực tiễn xét xử, một số bất cập có thể kể ra như: nhiều bản án xác định
nhầm lẫn về công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm
tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc
phạm tội dẫn đến xử lý tịch thu không thống nhất, không đúng. Vì vậy, với hy vọng
qua kết quả nghiên cứu của mình, tác giả đóng góp một phần nhỏ vào kho tàng tri
thức khoa học luật hình sự liên quan đến đề tài đã chọn. Bên cạnh, BLHS 2015 có
sửa đổi, bổ sung một số quy định về biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp
liên quan đến tội phạm theo hướng tiến bộ hơn, bảo đảm quyền con người trong xu
thế phát triển chung của nhân loại, đảm bảo yêu cầu công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Song điều đó vẫn chưa đủ hoàn thiện nhưng cũng là động lực cho
tác giả tiếp tục nghiên cứu để có những đề xuất nhằm cải thiện tốt hơn nữa về
những quy định liên quan đến biện pháp tư pháp này và tháo gỡ một số vướng mắc
còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng.
Chính vì những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài Tịch thu vật, tiền trực tiếp
liên quan đến tội phạm theo luật hình sự Việt Nam làm đề tài tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, liên quan đến đề tài Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên
quan đến tội phạm theo luật hình sự Việt Nam cũng đã có nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu, có thể chia các công trình nghiên cứu thành 03 nhóm lớn như:
Sách chuyên khảo, giáo trình:
“Bình luận Bộ luật Hình sự 2015, Phần thứ nhất - Những quy định chung”
của tác giả Đinh Văn Quế, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, năm 2017;
“Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017
(Phần chung) của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa, Nhà xuất bản Tư Pháp, năm 2017”;
“Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Phần chung” của Trường Đại học Luật Tp.
HCM, Nhà xuất bản Hồng Đức, năm 2019; “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam,
Phần chung” của Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học Quốc
Gia Hà Nội, năm 2021.
Các sách chuyên khảo và giáo trình trên đã dành một phần dung lượng để
nghiên cứu và trình bày về khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm biện pháp tư pháp nói
chung, trong đó có biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội
phạm, đưa ra quan điểm, ví dụ về tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm
tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có, khoản
thu lợi bất chính từ việc phạm tội nói riêng. Đây là cơ sở lý luận bước đầu giúp tác
3
giả định hướng và nghiên cứu chuyên sâu, phát triển nội dung nghiên cứu trong lĩnh
vực thực tiễn xét xử liên quan đến tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm,
nhất là, đối với việc tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc
tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất
chính từ việc phạm tội.
Bài viết, tạp chí:
Phạm Tuân (2019), Vướng mắc trong việc áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự
2015 và hướng hoàn thiện1
; Trần Đình Thắng (2020), Biện pháp tư pháp - Thực
trạng và giải pháp2
; Lê Đình Nghĩa (2020), Áp dụng biện pháp tư pháp “Tịch thu
vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm”3
; Hà Thái Thơ (2020), Xử lý vật chứng
khi xét xử vụ án hình sự - Bất cập và kiến nghị4
.
Bài viết của các tác giả trên phân tích lý luận và thực tiễn xét xử một số bản
án về tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, trong đó nêu lên hạn chế,
vướng mắc trong việc xác định và xử lý đối với công cụ, phương tiện dùng vào việc
phạm tội với lỗi vô ý; công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội là tài sản thuộc
sở hữu chung, tài sản đã được bảo đảm; nhầm lẫn trong việc xác định các đối tượng
vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có, khoản thu
lợi bất chính từ việc phạm tội; từ đó đưa ra đề xuất, kiến nghị. Đây là nguồn tài liệu
tham khảo có giá trị để tác giả nghiên cứu góp phần hoàn thiện luận văn.
Luận án, luận văn:
Luận văn thạc sỹ Luật định hướng ứng dụng “Biện pháp tư pháp Tịch thu vật,
tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm theo Luật hình sự Việt Nam” của tác giả
Dương Thị Kiều Thảo, năm 2015. Đây cũng là đề tài trùng tên với đề tài của tác giả.
Ở công trình này, ngoài việc đạt được các kết quả chung về biện pháp tư pháp, tác
giả Dương Thị Kiều Thảo thể hiện được một số khía cạnh như: khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa của biện pháp tư pháp, quy định của pháp luật, thực trạng xét xử của
các Tòa án trong việc áp dụng biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội
1 Phạm Tuân, “Vướng mắc trong việc áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 và hướng hoàn thiện”, https://
stp.bacgiang.gov.vn/hien-thi-noi-dung/-/asset_publisher/wtMnvtGfRUNi/content/vuong-mac-trong-viec-apdung-ieu-47-bo-luat-hinh-su-2015-va-huong-hoan-thien, truy cập ngày 31/10/2020.
2 Trần Đình Thắng, “Biện pháp tư pháp - Thực trạng và giải pháp”, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/
tinchitiet.aspx?tintucid=210547, truy cập ngày 31/10/2020.
3 Lê Đình Nghĩa, “Áp dụng biện pháp tư pháp Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm – Vướng mắc
và kiến nghị”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ap-dung-bien-phap-tu-phap-tich-thu-vat-tien-truc- tieplien-quan-den-toi-pham-vuong-mac-va-kien-nghi, truy cập ngày 31/10/2020.
4 Hà Thái Thơ, “Xử lý vật chứng khi xét xử vụ án hình sự - Bất cập và kiến nghị”, https://tapchitoaan.vn/baiviet/phap-luat/xu-ly-vat-chung-khi-xet-xu-vu-an-hinh-su-bat-cap-va-kien-nghi, truy cập ngày 13/6/2022.
4
phạm. Ngoài ra, công trình còn có một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng. Tuy nhiên, công trình chưa đề cập đến khoản thu
lợi bất chính từ việc phạm tội vì đây là quy định mới của BLHS 2015, có hiệu lực từ
ngày 01/01/2018.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên chỉ mới dừng lại ở việc đề cập
một cách sơ lược quy định của pháp luật liên quan đến biện pháp tư pháp tịch thu
vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm theo luật hình sự Việt Nam, nêu lên hạn
chế, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định trên trong thực tiễn xét xử và nêu
quan điểm xử lý của tác giả đối với các vướng mắc. Chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách tổng thể, toàn diện về lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn xét
xử đối với biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm theo
Luật hình sự Việt Nam; cụ thể là tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm
tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản
thu lợi bất chính từ việc phạm tội. Tuy nhiên, các công trình trên là nguồn tài liệu
tham khảo có giá trị cho tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Như vậy, Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm theo Luật hình
sự Việt Nam không phải là đề tài mới mà vốn đã được nhiều tác giả quan tâm,
nghiên cứu ở những góc độ tiếp cận khác nhau, với những đề tài rộng, hẹp khác
nhau. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của những tác phẩm, bài viết đó vẫn chưa thể
theo kịp với “thực tiễn” và “lỗ hỏng” tri thức khoa học luật hình sự liên quan đến đề
tài và cũng chưa giải quyết hết các bất cập mà pháp luật thực định cũng như thực
tiễn vướng phải. Tác giả, trong Luận văn này, vẫn còn tiếp tục phát hiện nhiều vấn
đề lý luận liên quan đến đề tài đã chọn và một số đề xuất, kiến nghị mà chưa được
bất kỳ tác phẩm, bài viết nào đề cập đến hoặc có đề cập nhưng chưa được nghiên
cứu triệt để. Với mục đích nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn
đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn xét xử về tịch thu công cụ,
phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán,
đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội. Từ những
hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật đưa ra kiến nghị để hoàn thiện quy định
của pháp luật - đây là tính mới của đề tài tác giả nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của luận văn là đưa ra đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện quy định
của pháp luật, góp phần áp dụng thống nhất thực tiễn xét xử đối với biện pháp tư
pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, cụ thể là tịch thu công cụ,
5
phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán,
đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đòi hỏi đề tài phải giải quyết các vấn
đề sau:
Nghiên cứu lý luận và quy định của pháp luật hình sự về tịch thu công cụ,
phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán,
đổi chác những thứ ấy mà có, khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội.
Đánh giá thực tiễn xét xử về tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc
phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có,
khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội và nguyên nhân của những hạn chế.
Đề xuất những kiến nghị để hoàn thiện quy định của pháp luật về tịch thu
công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do
mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan điểm được thể hiện trên các sách, bài
viết; quy phạm pháp luật của Bộ luật Hình sự, cụ thể là quy định tại điểm a, điểm b
khoản 1 Điều 47 BLHS 2015; thực tiễn xét xử về tịch thu công cụ, phương tiện
dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những
thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội của các Tòa án.
Thời gian nghiên cứu: khi đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về tịch thu
công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do
mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội, tác
giả chọn thời gian nghiên cứu từ năm 2015 cho đến nay; bởi vì, trước khi BLHS
2015 quy định mới về khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội có hiệu lực thì
thuật ngữ thu lợi bất chính đã được sử dụng phổ biến trong thực tiễn xét xử.
Không gian nghiên cứu: đề tài nghiên cứu thực tiễn xét xử về tịch thu công
cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua
bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội trên
phạm vi cả nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: tác giả sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử Mác - Lênin trong việc nghiên cứu đề tài.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: tương ứng với mỗi nhiệm vụ nghiên cứu, tác
giả sử dụng các phương pháp khác nhau. Cụ thể, sử dụng phương pháp nghiên cứu
6
lý thuyết luật học để nghiên cứu lý luận và quy định của pháp luật hình sự về tịch
thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do
mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội; sử
dụng phương pháp nghiên cứu án điển hình để đánh giá thực tiễn xét xử về tịch thu
công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do
mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội của
các Tòa án. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương pháp so sánh để làm nổi bật quy
định của pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến thuật ngữ thu lợi bất
chính trước và sau khi BLHS 2015 có hiệu lực vì khoản thu lợi bất chính từ việc
phạm tội là đối tượng mới được quy định trong BLHS 2015.
6. Dự kiến kết quả và địa chỉ ứng dụng các kết quả nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội
hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc
phạm tội; thực tiễn xét xử và nguyên nhân của hạn chế trong thực tiễn xét xử của
các Tòa án. Luận văn đưa ra những đề xuất, kiến nghị cụ thể nhằm tiếp tục hoàn
thiện quy định của BLHS 2015 về tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc
phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có;
khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội để áp dụng thống nhất trong thực tiễn. Bên
cạnh đó, các đề xuất, kiến nghị được tác giả đề cập trong luận văn sẽ trở thành
nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên, những người nghiên cứu trong việc nghiên
cứu, xây dựng hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan.
Địa chỉ ứng dụng các kết quả nghiên cứu: luận văn sau khi hoàn thiện sẽ
được gửi cho các cơ quan, người có thẩm quyền; thư viện của các cơ sở đào tạo
luật; bộ phận tham nưu, giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao; những người nghiên
cứu với mục đích đóng góp, xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn được bố cục thành 02 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội.
Chương 2. Tịch thu vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác
những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội.
7
CHƯƠNG 1
TỊCH THU CÔNG CỤ, PHƯƠNG TIỆN DÙNG VÀO VIỆC PHẠM TỘI
1.1. Lý luận và quy định của pháp luật hình sự về tịch thu công cụ,
phương tiện dùng vào việc phạm tội
1.1.1. Lý luận về tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội
Tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội là biện pháp tư pháp
được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS 2015. Bộ luật Hình sự không nêu
định nghĩa pháp lý về biện pháp tư pháp. Trong khoa học pháp lý hình sự, tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau, như sau:
Biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được quy định trong Bộ luật Hình
sự, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội,
có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt5
.
Các biện pháp tư pháp là những biện pháp cưỡng chế được quy định trong
Luật hình sự do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự quyết định áp
dụng đối với người, pháp nhân thương mại phạm tội hoặc người thực hiện hành vi
khách quan nguy hiểm cho xã hội trong khi mất năng lực trách nhiệm hình sự do
mắc bệnh ở các giai đoạn khác nhau của trách nhiệm hình sự nhằm lập lại công
bằng xã hội và ngăn ngừa tội phạm6
.
Theo tác giả, có thể khái quát, biện pháp tư pháp là một trong các biện pháp
cưỡng chế hình sự của Nhà nước, được quy định trong Bộ luật hình sự, do các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với người phạm tội, người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội nhưng không có năng lực trách nhiệm hình sự hay đối với
pháp nhân thương mại phạm tội nhằm thay thế, hỗ trợ hình phạt, giáo dục, ngăn
ngừa đối tượng tiếp tục gây nguy hiểm cho xã hội hoặc góp phần khắc phục thiệt
hại, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Về ý nghĩa, cùng với hình phạt và án tích, biện pháp tư pháp là một hình thức
của trách nhiệm hình sự mà người phạm tội có thể phải gánh chịu khi thực hiện
hành vi phạm tội. Tuy biện pháp tư pháp và hình phạt có nhiều điểm giống nhau
nhưng xét về bản chất pháp lý, biện pháp tư pháp không phải là hình phạt mà là các
biện pháp cưỡng chế được Bộ luật Hình sự quy định có thể áp dụng đối với người
5 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung),
Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.293.
6 Lê Văn Cảm (2021) Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần chung, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
Nội, tr. 391.
8
có hành vi nguy hiểm cho xã hội. Việc áp dụng các biện pháp tư pháp không gây án
tích cho người bị áp dụng. Việc quy định các biện pháp tư pháp trong Bộ luật Hình
sự và việc áp dụng các biện pháp đó trong thực tiễn có khả năng tác động, hỗ trợ
hình phạt trong việc giáo dục người phạm tội hoặc trong nhiều trường hợp còn có
thể thay thế cho hình phạt, rút ngắn được thủ tục tố tụng, giải quyết nhanh chóng
các vụ án. Việc quy định và áp dụng các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự
đã thể hiện phương châm đúng đắn trong việc thực hiện chính sách hình sự là sử
dụng tối đa, đồng bộ mọi biện pháp để tác động đến việc giáo dục người phạm tội,
hình phạt không phải là phương tiện, công cụ duy nhất trong công tác đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm. Tất cả các biện pháp tư pháp hình sự cũng nhằm
mục đích giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm, góp phần nâng cao hiệu
quả của sự tác động hình sự đối với tội phạm7
.
Biện pháp tư pháp có những đặc điểm sau: được quy định trong Bộ luật Hình
sự; được áp dụng bởi cơ quan tư pháp tùy thuộc vào từng giai đoạn của quá trình tố
tụng cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp là khác nhau; được áp dụng
đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó có thể cấu thành tội
phạm hoặc không đủ yếu tố cấu thành tội phạm; được áp dụng nhằm để hỗ trợ hoặc
thay thế cho hình phạt8
.
Theo Từ điển luật học, công cụ phạm tội là đối tượng vật chất được chủ thể
sử dụng trợ giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội. Công cụ phạm tội là dạng cụ
thể của phương tiện phạm tội được chủ thể sử dụng tác động đến đối tượng tác động
của tội phạm như dao để đâm nạn nhân, búa để phá cửa nhà kho vào trộm cắp tài
sản…9 và phương tiện phạm tội là đối tượng vật chất được chủ thể của tội phạm sử
dụng trợ giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội; phương tiện phạm tội có nhiều
dạng khác nhau: trong đó có dạng được gọi là công cụ phạm tội như dao để đâm
nạn nhân, búa để phá cửa nhà kho vào trộm cắp…Bên cạnh dạng phương tiện phạm
tội được gọi là công cụ phạm tội còn có dạng phương tiện phạm tội khác không
được gọi là công cụ phạm tội như xe máy dùng để chuyên chở thuốc phiện, tiền để
đưa hối lộ…10
. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ nêu chung chung, chưa nêu rõ sự khác
biệt giữa công cụ với phương tiện làm cơ sở để xác định, xử lý trong thực tiễn.
7 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), tlđd (5), tr.293.
8 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), tlđd (5), tr.294.
9 Bộ Tư Pháp - Viện Khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa - Nhà xuất bản
Tư pháp, tr.175.
10 Bộ Tư Pháp - Viện Khoa học pháp lý, tlđd (9), tr.627.
9
Theo Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần chung của Trường Đại học
Luật Tp. Hồ Chí Minh thì “vật được sử dụng vào việc phạm tội gồm công cụ,
phương tiện dùng vào việc phạm tội. Đây là những vật thuộc sở hữu của người
phạm tội và đã được người đó sử dụng vào việc phạm tội sẽ bị tịch thu sung quỹ
Nhà nước, đối với những vật không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch
thu và tiêu hủy”11
.
Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội theo Giáo trình Luật Hình sự
Việt Nam - Phần chung của Khoa Luật Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội thì
“những đối tượng này với tính chất là vật chứng trong vụ án hình sự, thuộc sở hữu
của người phạm tội và đã được họ sử dụng làm công cụ hoặc phương tiện để thực
hiện tội phạm, đó là vũ khí, hung khí sử dụng để thực hiện các tội xâm hại tính
mạng, sức khỏe con người; xe máy, ô tô, tàu thuyền là sở hữu của người phạm tội
nhưng họ đã dùng vào việc thực hiện tội phạm như buôn lậu, buôn bán hàng cấm,
vận chuyển ma túy, v.v. hoặc tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dùng làm của
hối lộ…Ở đây cũng cần lưu ý nếu vật chứng trong vụ án hình sự là tiền bạc hoặc
tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung công quỹ nhà nước; vật chứng là
hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán theo quy định của pháp
luật; còn vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và
tiêu hủy”12
.
Như vậy, cả 02 giáo trình trên đều không nêu khái niệm về công cụ, phương
tiện dùng vào việc phạm tội mà chỉ đưa ra định nghĩa để làm rõ nghĩa của từ nhà
làm luật sử dụng.
Trong sách Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015, Phần thứ nhất - Những quy
định chung của tác giả Đinh Văn Quế có nêu: “Khi tịch thu công cụ, phương tiện
dùng vào việc phạm tội, cần xác định chính xác những công cụ, phương tiện này
được dùng vào việc phạm tội thì mới tịch thu sung quỹ Nhà nước. Ví dụ: Võ Viết T
chuyên dùng chiếc ghe máy vận chuyển thuốc lá ngoại đem tiêu thụ ở nhiều nơi,
nên bị Tòa án tuyên bố tịch thu chiếc ghe máy để sung quỹ Nhà nước. Nếu công cụ,
phương tiện không xác định được dùng vào việc phạm tội thì không được tịch thu.
Ví dụ: Vũ Thị C bị bắt quả tang vận chuyển 0,5kg thuốc phiện bằng một chiếc xe
máy Dream II, nhưng chiếc xe này hàng ngày Vũ Thị C vẫn dùng làm phương tiện
đi làm nên không thể cho rằng chiếc xe máy là công cụ, phương tiện dùng vào việc
11 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), tlđd (5), tr.295.
12 Lê Văn Cảm (2021), tlđd (6), tr. 395.