Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thuyết tam tòng tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay
PREMIUM
Số trang
175
Kích thước
1.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
792

Thuyết tam tòng tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ VÂN

thuyÕt tam tßng, tø ®øc trong nho gi¸o

vµ ¶nh h-ëng cña nã ®èi víi ng-êi phô n÷

viÖt nam hiÖn nay

Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS

Mã số : 62 22 80 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN HÙNG HẬU

HÀ NỘI - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa

học của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong

luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng.

Những kết quả khoa học của luận án chưa được công bố

trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Vân

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 5

1.1. Những công trình nghiên cứu về đạo đức Nho giáo và thuyết tam

tòng, tứ đức trong Nho giáo 5

1.2. Những công trình nghiên cứu ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ

đức trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay 12

1.3. Những công trình nghiên cứu quan điểm và giải pháp chủ yếu

nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu

cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam

hiện nay 18

Chương 2: THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC TRONG NHO GIÁO 23

2.1. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Trung Quốc 23

2.2. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam 38

Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC ĐỐI

VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY- THỰC

TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 62

3.1. Ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người

phụ nữ Việt Nam hiện nay 62

3.2. Ảnh hưởng tích cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người

phụ nữ Việt Nam hiện nay 89

3.3. Những nhân tố làm biến đổi sự ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ

đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay 108

3.4. Một số vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức

trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay 115

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ

ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA THUYẾT TAM TÒNG, TỨ

ĐỨC ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY 124

4.1. Một số quan điểm chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và

hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với

người phụ nữ Việt Nam hiện nay 124

4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và

hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với

người phụ nữ Việt Nam hiện nay 135

KẾT LUẬN 155

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 157

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 159

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1: Người làm chính các việc chăm sóc con, chăm sóc người

già - người ốm, dạy bảo con 94

Bảng 3.2: Vai trò kinh tế giữa nam - nữ trong gia đình 95

Bảng 3.3: Người đóng góp nhiều công sức nhất cho kinh tế gia đình

giới tính người trả lời 95

Bảng 3.4: Người làm chính trong sản xuất - kinh doanh 96

Bảng 3.5: Bảng tham khảo người quản lý tài chính gia đình theo vùng

điều tra 96

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nho giáo ra đời thời Xuân Thu - Chiến Quốc - thời kỳ mà tình hình

kinh tế - xã hội có nhiều biến động nhất trong lịch sử Trung Quốc. Các nước

chư hầu nhà Chu tranh giành quyền lực, tàn sát lẫn nhau làm cho xã hội lâm

vào cảnh loạn lạc, rối ren. Trước tình hình đó, các nhà tư tưởng của Nho giáo

đã lý giải các vấn đề xã hội và họ muốn tìm ra phương pháp đưa xã hội từ

loạn lạc tới thịnh trị. Chính vì vậy, có nhiều ý kiến cho rằng, thực chất Nho

giáo là đạo trị nước, Nho giáo là đạo làm người vì bàn nhiều tới việc giáo dục

đạo đức cho con người - nhân tố giúp xã hội ổn định, trật tự.

Nội dung giáo dục đạo đức cho con người của Nho giáo tập trung ở các

phạm trù cơ bản như Tam cương, Ngũ thường, Chính danh. Đối với người

phụ nữ, nội dung giáo dục đạo đức của Nho giáo thể hiện rõ thông qua thuyết

tam tòng, tứ đức.

Nho giáo được truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc. Khi vào Việt

Nam, nó được cải biến đi cho phù hợp với tính chất ôn hòa vốn có của người

Việt. Trong quá trình tồn tại, giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng Nho giáo

làm công cụ để thiết lập ổn định trật tự xã hội và duy trì sự thống trị của giai

cấp cầm quyền. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, Nho giáo đã có

chỗ đứng nhất định trong đời sống tư tưởng của người Việt. Trong các nội

dung đạo đức của Nho giáo thì thuyết tam tòng, tứ đức là những quy phạm

giáo dục đạo đức cơ bản đối với người phụ nữ. Tư tưởng này đã có ảnh hưởng

rất sâu sắc đến vai trò, vị trí, cuộc sống của người phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh

các giá trị tích cực, thuyết tam tòng, tứ đức có nhiều mặt tiêu cực, trói buộc

người phụ nữ Việt Nam vào lễ giáo phong kiến, kìm hãm các bước tiến của

họ. Tuy nhiên, thuyết tam tòng, tứ đức trên chặng đường dài của lịch sử dân

tộc, nó vẫn có giá trị nhất định góp phần làm nên vẻ đẹp truyền thống của

người phụ nữ Việt Nam.

Ngày nay, mặc dù cơ sở kinh tế - xã hội của nhà nước phong kiến

không còn nhưng phần nào tư tưởng của Nho giáo nói chung; thuyết tam

tòng, tứ đức nói riêng vẫn còn tồn tại ít nhiều và có ảnh hưởng đến người phụ

2

nữ Việt Nam trên cả hai bình diện tích cực và hạn chế. Những ảnh hưởng tiêu

cực của nó như trọng nam khinh nữ, áp đặt hôn nhân… là một trong những

nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình và bất bình đẳng giới ở nước

ta hiện nay.

Tại Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Đảng ta thực hiện công cuộc Đổi

mới. Sự kiện này đánh dấu bước chuyển mình lớn lao của dân tộc. Trải qua

gần ba mươi năm thực hiện, quá trình Đổi mới của đất nước đã đạt được

nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực, trong đó có đổi mới kinh tế là

nền tảng. Tuy nhiên, mục đích của Đảng ta trong công cuộc Đổi mới không

chỉ đơn giản về kinh tế mà đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới quan niệm

về con người và giải phóng con người. Đảng ta luôn xác định, con người là

yếu tố quan trọng hàng đầu, trong đó, người phụ nữ là lực lượng đông đảo

nắm vai trò to lớn trong gia đình và xã hội. Công cuộc Đổi mới đã dẫn đến

những thay đổi về tiêu chí đánh giá của xã hội, của gia đình đối với người phụ

nữ nhằm đáp ứng nhu cầu mới của thời đại. Người phụ nữ Việt Nam ngày nay

phải hướng tới vẻ đẹp toàn diện hơn, trí tuệ hơn, giỏi việc nước đảm việc nhà,

tích cực tham gia các hoạt động xã hội...

Những quy tắc, chuẩn mực của thuyết tam tòng, tứ đức được sử dụng

một cách hợp lý sẽ trở thành nhân tố quan trọng nâng cao vị trí, vai trò của

người phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện đại. Điều đó cho thấy việc cần thiết

phải nghiên cứu thực trạng ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho

giáo đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay để đưa ra những giải pháp

nhằm phát huy giá trị tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực đối với sự

nghiệp giải phóng phụ nữ.

Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, nghiên cứu sinh lựa chọn

vấn đề: “Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với

người phụ nữ Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho luận án Tiến sĩ của mình.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ nội dung chủ yếu của thuyết tam tòng, tứ đức trong

Nho giáo Trung Quốc và Việt Nam, phân tích ảnh hưởng của nó; luận án đề

3

xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những ảnh hưởng

tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối

với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ những nội dung cơ bản của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho

giáo Trung Quốc và Nho giáo Việt Nam.

- Làm rõ thực trạng ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của thuyết tam tòng,

tứ đức trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam xưa và nay.

- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những

ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng,

tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản trong thuyết tam tòng, tứ

đức của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức

đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

- Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về

vấn đề phụ nữ

- Luận án dựa trên cơ sở nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của Nho giáo và

các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh; kết hợp chặt chẽ lý luận và thực tiễn, sử dụng phương

pháp văn bản học- trích dẫn từ những tài liệu gốc; sử dụng đúng đắn, phù hợp

với các phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử, thống kê, đối

chiếu, so sánh, tổng kết thực tiễn...

4

5. Những đóng góp mới

- Luận án khái quát những nội dung cơ bản của thuyết tam tòng, tứ đức

trong Nho giáo Trung Quốc và Việt Nam.

- Luận án phân tích rõ hơn những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của

thuyết tam tòng, tứ đức đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.

- Từ những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực và những mâu thuẫn đang tồn

tại trong xã hội, luận án đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm

phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam

tòng, tứ đức đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án

Luận án lý giải rõ hơn về thuyết tam tòng, tứ đức của Nho giáo và ảnh

hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án

- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo

trong việc hoạch định, thực thi chính sách trong công tác phụ nữ của Đảng và

Nhà nước ta hiện nay.

- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu

Nho giáo ở Việt Nam, vị trí, vai trò của người phụ nữ Việt Nam hiện nay.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án

gồm 4 chương, 11 tiết.

5

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO VÀ

THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC TRONG NHO GIÁO

Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về đạo đức Nho giáo

Trong tác phẩm Nho giáo (quyển Thượng và quyển Hạ), Trần Trọng

Kim đã khái quát quá trình hình thành, phát triển và các quan điểm của Nho

giáo qua các giai đoạn phát triển chủ yếu. Trong quyển Thượng, tác giả phân

tích cụ thể khái niệm và nội dung của thuyết tam tòng, tứ đức trong lịch sử

phát triển của Nho giáo trung Quốc và Nho giáo ở Việt Nam.

Trong Khổng học đăng, Phan Bội Châu đã trình bày rõ một số phạm

trù, nguyên lý cơ bản của Nho giáo. Tác giả đặc biệt đề cao những giá trị của

Nho giáo và coi đạo đức Nho giáo có vai trò cực kỳ to lớn trong việc giáo

dục, hoàn thiện nhân cách con người.

Trong tác phẩm Khổng giáo phê bình tiểu luận, Đào Duy Anh cho rằng,

chúng ta phải có thái độ khách quan, toàn diện và khoa học khi nhận xét vai

trò của Nho giáo trong xã hội. Ông phê phán thái độ của một số trí thức ở

Trung Quốc và Việt Nam coi Nho giáo chỉ là vô dụng, không phù hợp với

khoa học. Đặc biệt, ông đã nghiên cứu, phân tích, tổng hợp những nội dung

cơ bản của Nho giáo để từ đó đi đến kết luận, Nho giáo “dẫu nó không thích

hợp nữa ở đời nay, mà công dụng nó, sự nghiệp nó, vẫn trọn vẹn trong lịch

sử, không ai có thể chối cãi hay xóa bỏ đi được” [1, tr.150].

Trái ngược với hai quan điểm trên về Nho giáo (ca ngợi và phủ nhận),

trong Nho giáo xưa và nay [36], Quang Đạm cho rằng, Nho giáo có cả hai mặt

tích cực, hạn chế và vấn đề là biết tiếp thu, vận dụng nó như thế nào cho hợp lý.

Trong bài Đạo đức Nho giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam của

Trần Văn Giàu, từ chỗ chỉ ra những điểm khác nhau cơ bản giữa đạo đức Nho

giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam, tác giả khái quát một số đặc điểm

của nền đạo đức truyền thống và nêu lên những tàn dư của đạo đức Nho giáo

cần phải khắc phục trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đó

6

là chủ nghĩa gia đình, chủ nghĩa đồng tộc, phương châm trị đạo “thân thân”

gây trở ngại cho thực hiện dân chủ, động viên tài năng [Dẫn theo 135].

Nguyễn Thị Nga, Hồ Trọng Hoài trong Quan niệm của Nho giáo về

giáo dục con người [110] đã khái quát quan điểm giáo dục con người của Nho

giáo nhằm đào tạo những người quân tử, những kẻ sĩ có phẩm chất đạo đức

cao quý, ham hiểu biết, có nhân cách, có ý thức đối với cộng đồng để làm

quan. Những người này vừa là hạt nhân trong cuộc sống xã hội, vừa là lực

lượng để bổ sung cho các thế lực cầm quyền duy trì chế độ phong kiến. Song,

Nho giáo dạy đạo làm người theo quan điểm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” chứa

đựng nhiều yếu tố hợp lý. Những điều răn dạy đó được cha ông ta tiếp thu có

chọn lọc, bởi vậy, nó trở thành giá trị truyền thống của người Việt Nam.

Bài Những nhân tố chủ yếu làm biến đổi Nho giáo ở Việt Nam của

Phan Mạnh Toàn [162] đã khái quát sự biến đổi của Nho giáo ở Việt Nam bị

chi phối bởi ba nhân tố chủ yếu. Một là, thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ

nước của dân tộc Việt Nam. Hai là, truyền bá vào Việt Nam bên cạnh Nho

giáo còn có Phật giáo, Lão giáo, Đạo giáo... Giữa chúng có sự giao thoa và tác

động đến tư tưởng, quan niệm nhân sinh của người Việt. Ba là, trong quá

trình Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam, đối tượng chịu ảnh hưởng sâu

sắc nhất là những nhà Nho. Họ ít nhiều được học những câu chữ của các

thánh hiền đạo Nho. Họ có thể tiếp thu, giải thích và tận dụng Nho giáo theo

những cách, những chiều hướng khác nhau tuỳ theo địa vị xã hội, lập trường

chính trị, khả năng nhận thức cũng như đặc điểm riêng của cá nhân mình và nhu

cầu cuộc sống.

Thứ hai, những công trình nghiên cứu về thuyết tam tòng, tứ đức

Nguyễn Xuân Diện trong Tổng quan tài liệu Nho giáo và Nho học đã

khảo sát, đánh giá về trữ lượng, giá trị Nho học và kết luận: các tư liệu viết

bằng chữ Hán Nôm là quan trọng bậc nhất, vì chúng được biên soạn ngay

trong thời kỳ Nho giáo còn thịnh và là các cứ liệu trực tiếp nhất về Nho học

trong lịch sử. Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có 61 tên tài liệu về gia đình

truyền thống, đấy là chưa kể đến 264 cuốn gia phả của các dòng họ. Trong số

tài liệu trên có tới 51 tên tài liệu về gia huấn. Về gia huấn, trên Tạp chí Hán

7

Nôm số 3 (28) - 1996, tác giả Lê Thu Hương đã thông báo có khoảng 34 tên

tài liệu. Bên gia huấn có niên đại sớm nhất mà Viện Nghiên cứu Hán Nôm

còn lưu giữ là Cùng đạt gia huấn (VHv.286). Đây là một bản viết tay, có niên

đại 1733, do Hồ Sĩ Tích soạn. Cuốn này chép những bài học kinh nghiệm

trong cuộc đời của ông, dạy con cháu trong nhà giữ gìn nền nếp, biết cần

kiệm, cẩn thận, khiêm tốn, tránh kiêu căng, xa xỉ, đắm chìm trong chuyện

rượu chè... Nói chung, sách gia huấn nêu ra những chuẩn mực ứng xử trong gia

đình như cha con, vợ chồng, anh em, hoặc mở rộng ra trong mối quan hệ xã hội

(quan hệ láng giềng, bạn bè). Một số bản còn đề cập đến giáo dục giới tính cho

con trai, con gái (Hành tham gia huấn, Nữ huấn tam tự thư, Xuân Đình gia

huấn). Riêng về bàn luận về Nữ huấn có 10 tên tài liệu [Dẫn theo 174].

Trong Nho học và Nho học Việt Nam của Nguyễn Tài Thư [156] đã có

nhiều kiến giải mới về ảnh hưởng và vai trò của xã hội đối với xã hội và con

người Việt Nam trong lịch sử. Khi đề cập tới phạm vi, ảnh hưởng của Nho

giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tác giả cho rằng, ảnh hưởng quan trọng

hơn của Nho giáo là trong lĩnh vực thế giới quan và nhân sinh quan. Quan

niệm của Nho giáo về thuyết tam tòng, tứ đức thuộc về nhân sinh quan (quan

niệm về đạo đức người phụ nữ trong xã hội phong kiến). Chính vì vậy, tư

tưởng này có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống tinh thần con người Việt

Nam, phụ nữ Việt Nam xưa và nay.

Trong cuốn sách Nho giáo tại Việt Nam do Lê Sĩ Thắng chủ biên [135]

có một số bài viết đề cập tới vấn đề đạo đức của Nho giáo - thuyết tam tòng,

tứ đức đối với phụ nữ Việt Nam.

Bài Nho giáo triều Nguyễn và sự thất bại hoàn toàn của nó trước thử

thách của lịch sử của Nguyễn Tài Thư có nhận định rằng “vua quan nhà

Nguyễn chỉ muốn người phụ nữ cam tâm tới số phận thấp hèn để không còn

khả năng gì có thể gây tác hại cho trật tự xã hội đương thời”. Tác giả khẳng

định: “Hoảng sợ trước sức mạnh của phụ nữ mà Bùi Thị Xuân, một nữ tướng

của Tây Sơn là tiêu biểu, bực tức trước những yêu cầu tự do và bình đẳng của

phụ nữ mà Hồ Xuân Hương nói lên bằng thơ, vua quan nhà Nguyễn ra sức

truyền bá chữ “trinh”. Một mặt họ sắc phong cho những người mà họ cho là

8

thủ tiết với chồng, mặt khác họ ra sức tuyên truyền sự nhẫn nhục của người

vợ. Nguyễn Hàn Minh chủ trương người vợ bị chồng ruồng bỏ thì không nên

trách chồng mà nên “trinh nhất” với chồng để được tiếng khen là có nết quý.

Nguyễn Văn Siêu thì kêu gọi “đã bước lên cửa nhà chồng, sống chết không

dám khác”. Nguyễn Đức Đạt thì quả quyết: “làm vợ lẽ không gặp vợ cả hung

bạo thì không tỏ được đức hiền” [Dẫn theo 135, tr.515].

Bài viết Vị trí của Nho giáo thời kỳ cực thịnh của chế độ phong kiến

Việt Nam của Nguyễn Đức Sự, lý giải về cơ sở giúp cho Nho giáo chiếm được

vị trí độc tôn, các phạm trù đạo đức Nho giáo thâm nhập vào đời sống, con

người trong thời kỳ thịnh trị của chế độ phong kiến Việt Nam. Tác giả cho

rằng: “nền sản xuất nhỏ tiểu nông đã tương đối phát triển ở nước ta hồi thế kỷ

XIV và XV trở thành cơ sở xã hội để cho Nho giáo dễ dàng thâm nhập vào

đời sống. Bởi vì Nho giáo với các khái niệm hiếu, đễ, tiết, hạnh đã góp phần

củng cố uy quyền của người gia trưởng và tôn ty trật tự trong gia đình” [135,

tr.424]. Về sự tuyên truyền và phổ biến đạo đức Nho giáo thời kỳ này tác giả

khẳng định, triều đình phong kiến và cả một đội ngũ quan liêu nho sĩ đã tìm

cách làm cho Nho giáo thâm nhập vào trong quần chúng bằng giáo dục và

pháp luật, bằng khen thưởng và trừng phạt. Nhà vua đã ban ra không biết là

bao nhiêu những hứa điều, những bài cáo dụ và những quy định về nghi lễ để

phổ biến Nho giáo vào tận thôn xóm. Các xã trưởng phải có trách nhiệm

giảng dạy những lời cáo và những điều huấn ấy ở những nơi đình đám công

sở cho nhân dân thấm nhuần những lễ giáo phong kiến. Đối với những người

con hiếu đễ, người vợ goá ở vậy thờ chồng và hầu hạ cha mẹ chồng cho đến

chết đều được nhà nước biểu dương như những tấm gương tốt về đạo đức.

Trái lại những người nào làm trái những quy định về nghi lễ của nhà nước thì

sẽ bị khiến trách và chịu tội [Dẫn theo 135, tr.432].

Cuốn Nho giáo và gia đình do Vũ Khiêu chủ biên [71] đã đề cập đến

những quan niệm của Nho giáo về mối quan hệ vợ - chồng trong gia đình.

Theo tác giả, cuộc sống vợ chồng là cơ sở tồn tại của gia đình. Nhưng xuất

phát từ quan điểm coi trọng huyết thống và từ thái độ coi thường phụ nữ,

Nho giáo coi trọng tình anh em hơn tình vợ chồng. Bên cạnh đó, tác giả

9

cũng chỉ ra rằng theo Nho giáo, phụ nữ là người phải hứng chịu nhiều đau

khổ, thiệt thòi, bất công, cả cuộc đời phụ nữ chỉ thực hiện chữ tòng. Tác giả

cũng chỉ ra rằng, Nho giáo có quan niệm nghiệt ngã về tiết hạnh của người

phụ nữ và bên cạnh những điểm tích cực khuyên răn người phụ nữ phải trau

dồi phẩm chất đạo đức thì Nho giáo cũng có ảnh hưởng không tốt đến người

phụ nữ ở quan niệm trong xã hội có hai loại người không thể giáo hóa đó là

tiểu nhân và phụ nữ.

Cuốn sách Nho giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy [35]

đã chỉ ra sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn hóa Việt Nam. Ở đây, tác

giả đề cập tới đặc điểm của gia đình Nho giáo Việt Nam, vị trí vai trò của

người phụ nữ. Đặc điểm nổi bật của gia đình Nho giáo là gia đình phụ quyền

gia trưởng nhằm củng cố chế độ phong kiến. Trong gia đình Nho giáo, người

phụ nữ phải tuân phục người đàn ông, người phụ nữ phải thực hiện đạo tòng

trong tam tòng: “Con gái về nhà chồng phải kính nhường, giữ mình cho khéo,

đừng trái ý chồng. Còn chuẩn mực tứ đức mà người phụ nữ cần vươn tới đó là

truyền cho con gái, tiếp nối vòng đời tam tòng, tứ đức [tr.148]. Theo Nho giáo,

người đàn ông có quyền lấy năm thê, bảy thiếp nhưng người phụ nữ chỉ được

phép lấy một chồng và “trinh tiết” của người phụ nữ được Nho giáo đặc biệt đề

cao. Bên cạnh đó, cuốn sách này cũng chỉ ra rằng, nếu như tình cảm vợ chồng

là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng gia đình hạnh phúc thì Nho giáo lại đặt

chữ “hiếu đễ” trên chữ “tình” (vợ chồng), thực chất là coi nhẹ yếu tố cơ bản để

xây dựng hạnh phúc [tr.149].

Cuốn Một số vấn đề Nho giáo ở Việt Nam của Phan Đại Doãn (chủ

biên) [33] là tác phẩm trình bày khá đầy đủ quan niệm của Nho giáo về vị trí,

vai trò và đạo đức của người phụ nữ, sự ảnh hưởng của các quan niệm đó đối

với người phụ nữ Việt Nam. Cuốn sách này chỉ ra các điều luật của các triều

đại phong kiến Việt Nam đối với người phụ nữ trên tinh thần bị ảnh hưởng

của tư tưởng “trọng nam khinh nữ” trong Nho giáo. Tác giả cũng đưa ra nhiều

nhận xét, đánh giá đáng lưu ý. Đó là địa vị của người phụ nữ Việt Nam cao

hơn so với phụ nữ Trung Quốc và tính gia trưởng trong gia đình Việt Nam

không cực đoan như tính gia trưởng của gia đình Trung Quốc mà nguyên

10

nhân sâu xa của nó là gia đình Việt Nam nhỏ và gia đình Trung Quốc là gia

đình lớn. Tác giả đã mượn lời của nhà nghiên cứu Nhật Bản là Insun Yu để lý

giải điều này.

Đặc biệt, tác giả còn chỉ ra sự ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức

thông qua các bài Gia huấn và Hương ước được truyền tụng trong đời sống

xã hội Việt Nam để cho thấy rõ mức độ ảnh hưởng sâu đậm của những tư

tưởng này đối với người dân Việt Nam. Tuy nhiên, thuyết tam tòng, tứ đức

của Nho giáo khi vào Việt Nam đã bị khúc xạ để phù hợp với đặc trưng riêng

của người Việt Nam.

Cuốn Nho giáo ở Việt Nam - Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam

[174] là tổng hợp các bài báo cáo của Hội thảo quốc tế Nho giáo ở Việt Nam

của các nhà nghiên cứu Việt Nam, Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan... Cuốn sách

có ba phần chính: quá trình du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam;

thư tịch Hán Nôm Việt Nam về Nho giáo; Ảnh hưởng của Nho giáo trong đời

sống xã hội Việt Nam thời phong kiến. Những nội dung trên đều khẳng định

một điều là Nho giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với đời sống xã hội Việt

Nam. Trong số các bài viết tham gia Hội thảo, bài viết: Sách gia huấn và vấn

đề giáo dục gia đình theo quan niệm của các nhà Nho Việt Nam của Đỗ Thị

Hảo đã đề cập tới thuyết tam tòng, tứ đức. Tác giả đưa ra thuyết tam tòng, tứ

đức mà người phụ nữ Việt Nam phải thực hiện, điều này được trích dẫn rất

rõ trong các tác phẩm gia huấn (những lời răn dạy đạo đức trong gia đình).

Đỗ Thị Hảo đã thống kê các bài gia huấn trong đời sống xã hội của nước ta

và đề cập vấn đề người phụ nữ trong xã hội Việt Nam bị coi thường. Đó là

tâm lý trọng nam khinh nữ, nam ngoại nữ nội, nam thượng nữ ti; phụ nữ là

đối tượng khó dạy bảo. Đặc biệt tác giả đã chỉ ra các nhục hình mà người

phụ nữ phải chịu khi bị phạm tội (trong thời Nguyễn): “Gọt gáy bôi vôi, thả

bè trôi sông hoặc voi giày” [174, tr.230].

Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương [2] tập trung trình bày

các đặc điểm kinh tế, chính trị, đời sống xã hội theo nếp cũ của người Việt

Nam. Công trình đề cập tới vị trí, vai trò, đạo đức của người phụ nữ Việt Nam

trong xã hội cũ. Trong xã hội Việt Nam luôn tồn tại quan niệm trọng nam

11

khinh nữ, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi, luôn luôn phải chịu thuận

theo thuyết tam tòng. Mặt khác, tác giả thừa nhận vị trí của người đàn bà Việt

Nam cao hơn người đàn bà Trung Quốc.

Phan Ngọc trong Bản sắc văn hóa Việt Nam [112] đã chỉ ra các khúc xạ của

Nho giáo khi vào Việt Nam. Nho giáo được người Việt tiếp thu và biến đổi nó cho

phù hợp với xã hội Việt. Nhiều phạm trù của Nho giáo đã được các nhà Nho Việt

Nam cải biến, có nội hàm rộng hơn, phong phú, mang nhiều yếu tố nhân văn,

nhân bản hơn. Theo tác giả, có như vậy Nho giáo mới đóng một vai trò quan trọng

đối với lịch sử của dân tộc và ảnh hưởng nhiều mặt đối với văn hóa Việt Nam.

Bài viết Nho giáo với gia đình Việt Nam truyền thống của Tú Hoan [57]

có những đánh giá sắc sảo về vai trò, vị trí của người phụ nữ Việt Nam trong

gia đình truyền thống. Gia đình là một phạm trù lớn trong Nho giáo với tư

cách là một hệ tư tưởng triết học. Trong Ngữ luân: “Vua - Tôi, Cha - Con,

Chồng - Vợ, Anh - Em, Bạn bè” thì có đến hai cương nói về gia đình, trong

ngũ luân: “quân thần, phụ tử, huynh đệ, phu thê, bằng hữu” có đến ba luân nói

về gia đình. Có lẽ cũng bởi vì Nho giáo là một học thuyết chính trị nên Nho

giáo coi gia đình như là một quốc gia thu nhỏ và để điều hành được đất nước

trước hết phải điều khiển được gia đình (Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ). Những

mối quan hệ gia đình phức tạp này cứ dai dẳng đeo bám người phụ nữ, khổ lắm,

nhưng vẫn cắn răng chịu đựng cũng bởi tam tòng. Sống trên cương vị người vợ,

người con dâu, người phụ nữ càng phải uốn mình để đạt tứ đức. Nhưng dù thế

nào, vai trò của người phụ nữ trong gia đình Việt Nam truyền thống cũng vẫn rất

quan trọng. Vị trí và thân phận của người phụ nữ không quá thấp và bị coi rẻ như

phụ nữ trong luân lý Nho giáo hoặc phụ nữ trong các mô hình gia đình ở các

quốc gia chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của Nho giáo. Đây có thể nói là một

sự tiến bộ về văn hóa, một sự tiếp thu có chọn lọc trên cơ sở có sự hòa hợp với

các yếu tố văn hóa bản địa của người Việt Nam chúng ta. Đây là cái tài của

người Việt Nam trong việc “bán địa hóa” văn hóa bên ngoài.

Nhìn chung các công trình trên đã phân tích những nội dung cơ bản của

đạo đức Nho giáo, làm sáng tỏ nội dung của thuyết tam tòng, tứ đức và một số

ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam xưa và nay.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!