Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
PREMIUM
Số trang
130
Kích thước
1.8 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1983

Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

------------------

HOÀNG ANH

THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊĐẠO ĐỨC

CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Tâm lý học

Mã số: 60 31 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2007

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu

Việt Nam đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước, cùng với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội, hệ thống giá trị cũng thay

đổi. Nhiều giá trị mới được tạo dựng, một số giá trị truyền thống khác được mở

rộng về nội dung, v.v… Điều này đã ảnh hưởng đến định hướng hệ thống giá trị của

mỗi cá nhân, nhất là thanh niên trong giai đoạn hiện nay.

Giá trị được hiểu là tổ hợp các thuộc tính tâm lý của nhân cách. Giá trị tạo nên

bản chất của nhân cách và qui định chiều hướng, tính chất của hành vi. Giá trị thể

hiện ở vai trò, vị trí, lối sống của cá nhân. Vì thế, giá trị được coi là cốt lõi của nhân

cách.

Giá trị qui định hoạt động của cá nhân, là cơ sở để cá nhân tự đánh giá và điều

chỉnh hoạt động và hành vi ứng xử trong cuộc sống. Vì thế lựa chọn giá trị phù hợp

với xu thế phát triển của thời đại, với truyền thống của dân tộc, phù hợp với yêu cầu

của nghề nghiệp và điều kiện của bản thân là vấn đề phải cần quan tâm nghiên cứu

một cách thoả đáng.

SVSP cần định hướng giá trị đúng đắn để không chỉ tích cực trong học tập và

rèn luyện ở trường sư phạm mà còn định hướng giá trị cho học sinh của mình khi đã

là giáo viên. Do đó, xác định cấu trúc giá trị đạo đức và định hướng giá trị đạo đức

cho SVSP có ý nghĩa xã hội to lớn.

Nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị đã được các tác giả trong nước và

trên thế giới đề cập đến như Ph.N. Gônôbôlin, V.A. Cruchetxki, Nguyễn Quang

Uẩn, Trần Trọng Thủy, Thái Duy Tuyên, Đặng Hữu Toàn, v.v… Trong những công

trình nghiên cứu, các tác giả đã đề cập đến nhiều bình diện của giá trị và định hướng

giá trị ở thanh niên như “Định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong nền

kinh tế thị trường”, “Vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta

hiện nay”, “Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo hệ chuẩn giá trị Chân –

Thiện – Mỹ”, “Giá trị đạo đức – Giá trị bản thân và giá trị xã hội”, v.v…

Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy chưa có một đề tài nào nghiên cứu cụ thể về

giá trị và định hướng giá trị đạo đức ở sinh viên các trường sư phạm nói chung và

SVSP tại TPHCM nói riêng. Vì lẽ đó, tìm hiểu cụ thể các giá trị và định hướng giá

trị đạo đức của SVSP là cần thiết.

Từ những lý do trên, người nghiên cứu quyết định chọn đề tài “Thực trạng

định hướng giá trị đạo đức của sinh viên sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh”.

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng định hướng giá trị đạo đức ở SVSP, đề xuất

một số giải pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức của SVSP Thành phố Hồ Chí

Minh.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu: Nhân cách của SVSP

3.2. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của

SVSP Thành phố Hồ Chí Minh

4. Giả thuyết nghiên cứu

Hiện nay, SVSP ở TPHCM có nhận thức, thái độ và hành vi đạo đức khá tích

cực trong các mối quan hệ của cuộc sống.

Trong hệ thống giá trị đạo đức của SVSP ở TPHCM có sự kết hợp những giá

trị đạo đức truyền thống và những giá trị đạo đức hiện đại.

Có sự khác biệt tương đối giữa sinh viên nam và sinh viên nữ, giữa sinh viên ở

các tỉnh lên thành phố học với sinh viên sống tại TPHCM, giữa sinh viên năm đầu

và sinh viên năm cuối, và giữa sinh viên một số trường sư phạm ở TPHCM.

Nếu xác định được các giá trị đạo đức ở SVSP hiện nay sẽ tìm ra các giải pháp

giáo dục định hướng giá trị đạo đức một cách đúng đắn cho SVSP.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Nghiên cứu các vấn đề lý luận về giá trị đạo đức và định hướng giá

trị đạo đức.

5.3. Khảo sát thực trạng định hướng giá trị đạo đức của SVSP TPHCM

5.4. Đề xuất một số giải pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho

SVSP.

6. Phạm vi nghiên cứu

6.1. Về nội dung: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu định hướng giá trị đạo

đức trong hệ thống giá trị nhân cách.

6.2. Về phạm vi khảo sát: khảo sát định hướng giá trị đạo đức của sinh

viên ở một số trường sư phạm trong địa bàn TPHCM năm học 2006 – 2007.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Phương pháp luận: Triết học Mac – Lênin, quan điểm hệ thống cấu

trúc, quan điểm hoạt động – nhân cách

7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:

- Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, so sánh, trừu tượng

hoá, khái quát hóa,…

- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra bằng phiếu câu hỏi,

phỏng vấn, quan sát

- Phương pháp toán thống kê: Sử dụng SPSS

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

● Giá trị là một khái niệm được nghiên cứu trên phạm vi rất rộng và ở nhiều

lĩnh vực khác nhau như kinh tế, tâm lý và giáo dục. Trong kinh tế, “Giá trị” có khi

được dùng chỉ tính tiện ích của hàng hoá. Trong Tâm lý học, “giá trị” được dùng để

chỉ thuộc tính tâm lý cá nhân. Còn trong Giáo dục học, “giá trị” được hiểu như là

thành phần cốt lõi của đạo đức cần giáo dục cho học sinh.

Trong những năm cuối của thế kỉ 20, vấn đề giá trị và định hướng giá trị ngày

càng được nhiều nước quan tâm và nghiên cứu như Ba Lan, Liên Xô, Bungary,

Nhật Bản, Hungary, v.v... Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều vấn đề

của giá trị như nội dung (gồm giá trị đạo đức, giá trị kinh tế, giá trị thẩm mỹ) [41,

tr.108], cấu trúc của giá trị và một số giá trị cơ bản như hợp tác, tự do, hạnh phúc,

trung thực, khiêm tốn, tình yêu, hòa bình, tôn trọng, trách nhiệm, giản dị, khoan

dung, đoàn kết [72, tr.1], công cụ để đo đạc và kiểm chứng giá trị, những tác động

của thế giới đến sự thay đổi các giá trị và nhấn mạnh sự khủng hoảng giá trị là một

vấn đề toàn cầu và những giá trị được toàn cầu chấp nhận trong giai đoạn hiện nay,

đó là tinh thần tập thể, sự bảo vệ đời sống con người, bảo vệ thiên nhiên và chân giá

trị nhân loại, sự công bằng, tự do, bình đẳng.

Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị

như “Tổng quan về giá trị và giáo dục giá trị”, đề tài KX-07-04 (1993) do Lê Đức

Phúc và Mạc Văn Trang thực hiện; “Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên

trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” (1995), Luận án Tiến sĩ của Dương Tự Đàm;

“Giá trị, định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” - Đề tài KX-07-04 (1995)

do Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang làm chủ nhiệm. Các đề tài

đã nêu định hướng giá trị chung trên các lĩnh vực nhân cách, nghề nghiệp, khu vực

và giới tính.

Trong cuốn “Về giá trị và giá trị châu Á”, Hồ Sỹ Quý đã phân tích những giá

trị truyền thống Châu Á và nền văn hoá Việt Nam đồng thời phân tích sự biến động

một số giá trị ưu trội trong bảng giá trị Châu Á tại Việt Nam như cần cù, hiếu học,

gia đình và cộng đồng trước tác động của quá trình toàn cầu hoá.

Chức năng và ý nghĩa cơ bản của giá trị cũng như những giá trị mới trong tư

tưởng và lối sống của thanh niên Việt Nam cũng được các nhà khoa học, nhà giáo

Việt Nam như Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thuỷ, Đỗ Long trình bày trong các

bài báo khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành hay trong các công trình nghiên

cứu (Luận án Tiến sĩ của Đỗ Ngọc Hà, 2002).

● Đạo đức và giáo dục đạo đức là một vấn đề được nghiên cứu từ xa xưa. Nhà

Triết học cổ Hy Lạp Platon đề cao giáo dục “chân, thiện, mỹ” trong nghiên cứu

Triết học. Aristote đã nói đến đức dục trong ba mặt: Thể, Đức, Trí [64, tr.43]. Đặc

biệt Khổng Tử đã đưa ra những chuẩn mực cần có của người quân tử. Theo ông,

người quân tử phải sống theo chữ “Nhân” và tôn thờ chữ “Lễ”, giữ kỷ cương trật tự

của luật gia, phép nước [65, tr.57].

Các quan niệm về đạo đức, về thiện, ác lần lượt xuất hiện trong các tác phẩm

của Ph. Ănghen, Heghen, Phơbach, Kant. Hêghen quan niệm “ác” là những dục

vọng xấu xa của con người như “lòng tham lam”, “sự thèm muốn”; Phơbach coi

“cái thiện tuyệt đối” là tình yêu thương đồng loại [28, tr.7]. Đặc biệt Kant đã cho ra

đời hẳn một học thuyết về đạo đức, được gọi là “Đạo đức học Kant”.

N.A. Lyapin, A.G. Côvalép, Liđya và Bôgiôvic (1962), trong cuốn “Cơ sở tâm

lý học của đức dục” đã trình bày các thành phần của đạo đức gồm “thói quen đạo

đức”, “tình cảm đạo đức”, “quan điểm – khái niệm đạo đức” như là những thành

phần tạo nên “niềm tin” – cốt lõi của vấn đề hình thành và giáo dục đạo đức.

Ở Việt Nam, “đạo đức” từ lâu đã trở thành tiêu chí đánh giá về tư tưởng và lối

sống của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về văn

hoá coi tư tưởng, lối sống mà cụ thể là việc định hướng giá trị đạo đức có quan hệ

mật thiết đến mức tổ hợp thành một vấn đề trọng tâm và cấp bách trong quá trình

xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Nghiên cứu về các giá trị đạo đức, nguồn gốc hình thành giá trị đạo đức Việt

Nam và định hướng giá trị đạo đức được Trần Văn Giàu, Vũ Khiêu, Trần Văn

Khuê, Huỳnh Khái Vinh, v.v… trình bày trong các công trình nghiên cứu của mình.

Lối sống đạo đức của SVSP với nhiều mặt biểu hiện, đề xuất nhiều biện pháp

tích cực trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên được Nguyễn Quang

Uẩn phân tích trong đề tài “Xây dựng lối sống và đạo đức mới cho sinh viên Đại

học Sư phạm, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, mã số 96/08.

Một nhóm tác giả thuộc trường ĐHSPKT TPHCM thực hiện đề tài “Đạo đức

sinh viên Việt Nam hiện nay – thực trạng và xu hướng biến đổi” (2006), trong đó,

các vấn đề như đạo đức, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội, những yêu cầu

về nội dung đạo đức của sinh viên trong sự phát triển của xã hội Việt Nam, thực

trạng đạo đức của sinh viên Việt Nam hiện nay ở các tỉnh phía Nam, v.v… được đề

cập.

Những bài viết trên các tạp chí chuyên ngành như Triết học, Tâm lý học, Giáo

dục đã nêu lên nhiều quan điểm, ý kiến phân tích vấn đề định hướng giá trị và giá trị

đạo đức của thanh niên hiện nay. Như trong bài “Những suy nghĩ về sự thay đổi

thang giá trị đạo đức trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam

hiện nay” [20], tác giả Trần Hoàng Hảo đã nêu lên những nguyên nhân dẫn đến sự

biến động phức tạp trong giá trị đạo đức ở nước ta, đó là sự bất cập giữa lý luận với

thực tế xã hội, mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý trí với tình cảm,

giữa lý tưởng và hiện thực,.v.v… Tác giả kết luận: “…đạo đức truyền thống là một

trong những nhân tố quan trọng góp phần tạo ra môi trường bền vững cho sự phát

triển kinh tế công nghiệp hoá - hiện đại hoá”.

Nhìn chung, tất cả những đề tài khoa học đã nghiên cứu về giá trị, định hướng

giá trị, đạo đức và giáo dục đạo đức đều thể hiện một cách chung chung hoặc chỉ đề

cập theo diện rộng với các giá trị truyền thống của dân tộc, hoặc đi theo hướng giáo

dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Cần phải có những công trình nghiên cứu hệ thống giá

trị đạo đức của một nhóm khách thể cụ thể dưới góc độ lứa tuổi, hay ngành nghề

nhất định.

1.2. Giá trị và định hướng giá trị

1.2.1. Giá trị

a. Khái niệm giá trị

Giá trị (Value) được nhiều khoa học nghiên cứu như Triết học, Xã hội học,

Tâm lý học dưới nhiều bình diện, khía cạnh khác nhau như sự hình thành, tồn tại,

nội dung và điều kiện hình thành, cũng như ý nghĩa của giá trị đối với cá nhân và xã

hội nhất định.

• Triết học Mácxít nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử, tính nhận thức và

tính thực tiễn của giá trị. Chủ nghĩa Mac – Lênin coi giá trị là những hiện tượng xã

hội đặc thù, mọi giá trị đều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của con người. Nói

đến quan điểm giá trị, bao giờ cũng nói đến mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể.

Các giá trị đều được nhận thức và kiểm nghiệm bằng thực tiễn.

Rõ ràng là giá trị gắn với hoạt động của con người. Giá trị tồn tại thật, nhận

thức được, kiểm chứng được và được hình thành, thay đổi trong thực tiễn cuộc sống

xã hội của con người.

• Tâm lý học xã hội nghiên cứu giá trị và định hướng giá trị trong cộng đồng,

đồng thời, giải thích vai trò của chúng trong sự hình thành và phát triển của các hiện

tượng tâm lý xã hội như tâm lý dân tộc, nhu cầu, thị hiếu, tập quán, lối sống của các

nhóm xã hội.

• Tâm lý học hoạt động đã xác định “giá trị là cái được chủ thể đánh giá thừa

nhận trên cơ sở mối quan hệ với sự vật, hiện tượng đó”. Các nhà Tâm lý học nghiên

cứu khái niệm giá trị nhằm mục đích tìm hiểu hành vi, hoạt động của con người và

dự báo phát triển nhân cách. Trong đó chuyên ngành Tâm lý học nhân cách đề cập

đến giá trị như là một bộ phận cấu thành nên tâm lý – nhân cách con người.

Có thể nói giá trị là một phạm trù không thể thiếu được khi đề cập đến vấn đề

nhân cách: Hoạt động – Giao tiếp – Giá trị - Nhân cách” [5, tr.261].

Giá trị được hiểu như thế nào? Có nhiều ý kiến khác nhau về giá trị, phổ biến

nhất, tập trung nhất vẫn là tính có ích của giá trị đối với cá nhân và xã hội. Cụ thể

như:

“Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân,

hoặc xã hội đều có một giá trị” (J.H.Fichter, nhà Xã hội học Hoa kỳ) và đồng tình

với quan niệm này còn có V.P. Tugarinov, L. Dramaliev, J. Makiguchi,v.v...

Makiguchi viết “giá trị của sự vật (có thể hiểu là bao gồm sự vật và hiện tượng –

người nghiên cứu) là cái được chủ thể thừa nhận, trên cơ sở mối quan hệ của sự vật

với chúng ta là có tầm quan trọng trong cuộc sống” [41, tr.108].

Một số tác giả Việt Nam như Trần Văn Giàu, Phạm Minh Hạc, Trần Trọng

Thủy, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Khái Vinh, v.v… đều cho rằng giá trị là tính có

nghĩa tích cực, tốt đẹp, đáng quý, có ích của các đối tượng với các chủ thể. Chủ thể

ở đây có thể là một nhóm người, một giai tầng, một dân tộc hoặc một thời đại [63,

tr.49]. Theo Nguyễn Quang Uẩn, giá trị của một sự vật hay hiện tượng đều được

thừa nhận một cách khách quan dựa vào mối quan hệ giữa chủ thể và nhu cầu đối

với sự vật, hiện tượng đó.

Từ những phân tích ở trên, theo chúng tôi, giá trị có thể được hiểu là mức độ

cho thấy tính có lợi ích, có ý nghĩa của sự vật, hiện tượng, gắn liền với nhu cầu của

cá nhân con người hay nhóm người.

b. Phân loại giá trị

Có nhiều cách phân loại giá trị. Tùy thuộc vào mục đích tiếp cận mà các tác

giả phân chia giá trị như sau:

- Dựa vào sự thỏa mãn nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần của con người

mà giá trị được chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị vật chất như giá

trị sử dụng, giá trị kinh tế. Giá trị tinh thần như giá trị khoa học, giá trị chính trị, giá

trị đạo đức, giá trị pháp luật, giá trị tôn giáo.

- Căn cứ vào các giá trị chi phối hệ thống hành vi lớn của con người, M.

Popon và J.R. William đã đề xuất các giá trị chủ yếu gồm các giá trị tồn tại sinh

học, các giá trị tính cách, các giá trị văn hóa và các giá trị xã hội [77, tr.58].

- Dựa trên các lĩnh vực hoạt động của con người, Huỳnh Khái Vinh chia giá trị

thành các nhóm: Giá trị nhân văn, giá trị đạo đức, giá trị văn hoá, giá trị chính trị,

luật pháp, giá trị kinh tế. [83, tr.60]. Đồng quan điểm với Huỳnh Khái Vinh có J.H.

Fichter, M. Popon và J.R. William. Mặc dù cách phân loại này mang tính toàn vẹn

trong cấu trúc hệ thống của các loại giá trị, nhưng vẫn chưa thể hiện một cách tách

bạch trong sự biểu hiện các giá trị cụ thể, và điều này dẫn đến khó khăn trong khi

nghiên cứu.

Mỗi cách phân loại giá trị thể hiện mỗi khía cạnh khác nhau và không có cách

phân loại nào thể hiện đầy đủ mọi phương diện giá trị vốn dĩ rất phong phú trong

cuộc sống. Điều quan trọng là khi xem xét các giá trị, cần xác định chúng trong một

hệ thống - cấu trúc, đặt chúng theo các thứ bậc và chú ý tính đa dạng trong các biểu

hiện sinh động của từng giá trị.

Trong đề tài này, chúng tôi phân loại giá trị dựa trên mức độ nhu cầu của con

người, trong đó, đạo đức là một trong những nhóm giá trị tinh thần quan trọng, chi

phối hành vi lối sống của con người (được trình bày ở phần dưới).

c. Hệ giá trị, thang giá trị và chuẩn giá trị

- Hệ giá trị (hay còn gọi là hệ thống giá trị) là một tổ hợp giá trị khác nhau

được sắp xếp, hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định, thành một tập hợp

mang tính toàn vẹn, hệ thống, thực hiện các chức năng đặc thù trong việc đánh giá

của con người theo những phương thức vận hành nhất định của giá trị [77, tr.62].

Các hệ giá trị có vị trí độc lập tương đối và tương tác với nhau theo những thứ

bậc phù hợp với quá trình thực hiện các chức năng xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử

cụ thể. Do vậy, hệ thống giá trị luôn mang tính lịch sử xã hội và chịu sự chế ước bởi

lịch sử - xã hội. Trong hệ thống giá trị có chứa đựng các nhân tố của quá khứ, của

hiện tại và có thể cả những nhân tố trong tương lai, các giá trị truyền thống, các giá

trị thời đại, các giá trị có tính nhân loại, tính dân tộc, tính cộng đồng, tính giai cấp,

tính lý tưởng và tính hiện thực v.v...

- Thang giá trị (thước đo giá trị) là một tổ hợp giá trị, một hệ thống giá trị

được sắp xếp theo một trật tự ưu tiên nhất định.

Thang giá trị biến đổi theo thời gian, theo sự phát triển, biến đổi của xã hội

loài người, cộng đồng và từng cá nhân. Trong quá trình biến đổi đó, thang giá trị

của xã hội, của cộng đồng và của nhóm chuyển thành thang giá trị của từng người,

cứ thế qua từng giai đoạn lịch sử của con người.

Thang giá trị là một trong những động lực thôi thúc con người hoạt động. Hoạt

động được tiến hành theo những thang giá trị cụ thể sẽ tạo nên những giá trị nhất

định, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con người. Chính trong hoạt động tạo ra

những giá trị lại góp phần khẳng định, củng cố, phát huy, bổ sung, hoàn thiện hoặc

thay đổi thang giá trị.

- Chuẩn giá trị là những giá trị giữ vị trí ở thứ bậc cao, vị trí cốt lõi, then chốt

trong thang giá trị, là chuẩn mực chung cho nhiều người. Hay nói cách khác, chuẩn

giá trị là các giá trị cốt lõi được lựa chọn, đánh giá và được xác định như các chuẩn

mực chung cho đại đa số thành viên xã hội [83, tr.62].

Chuẩn giá trị luôn tồn tại và phát triển thông qua mối quan hệ tương tác, nhất

là các mối liên hệ cấu trúc theo tầng bậc trong bảng giá trị xã hội để bảo đảm tính

ổn định và tính đa dạng của thang giá trị xã hội. Các chuẩn giá trị xã hội đóng vai

trò chuẩn mực cho các giá trị khác và là chuẩn cơ bản cho định hướng giá trị của đại

đa số thành viên xã hội.

Ở Việt Nam, chuẩn giá trị thường mang ý nghĩa luân lý sâu sắc. Theo Hồ Chủ

tịch, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, trung với nước, hiếu với dân là thang giá

trị cao nhất, là thước đo giá trị của người Việt Nam, trong đó cái “đức”, cái “thiện”

là cốt lõi, là chuẩn của mọi giá trị.

Theo Trần Văn Giàu, những giá trị đạo đức tốt đẹp, chuẩn mực thường được

gọi là phẩm giá, phẩm chất [77, tr.65].

Trải qua nhiều thời kỳ với bao khó khăn, thăng trầm của đất nước, dân tộc,

nhưng hạt nhân cơ bản của thang giá trị, thước đo giá trị và nhân phẩm con người

Việt Nam ngày nay vẫn là các giá trị nhân văn truyền thống như lòng tự hào dân

tộc, bản sắc văn hóa dân tộc, trung với nước, hiếu với dân, nhân nghĩa, cần cù,

thông minh, năng động, sáng tạo.

Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải thừa nhận, xã hội Việt Nam hiện tại đang có

sự biến động nhanh chóng, rõ nét thậm chí khủng hoảng, đảo lộn về thang giá trị,

chuẩn giá trị xã hội trong một bộ phận thanh niên Việt Nam thể hiện trong suy nghĩ,

lối sống và trong hành vi ứng xử như “sống suy đồi, thoái hoá một cách nghiêm

trọng, ham tư lợi, vị kỉ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng.v.v… suy đồi đến

mức lãng quên, coi thường những chất liệu sống cơ bản”. Điều quan trọng không

phải là lên án, kết tội một bộ phận nhỏ lớp trẻ đang có lối sống như trên, mà cần tiếp

tục nghiên cứu để có những nhận định, đánh giá đúng đắn, khách quan tình hình

biến đổi của thang giá trị, chuẩn giá trị ngày nay, để có những định hướng giá trị

đúng đắn cho xã hội, cho từng nhóm người, từng cá nhân để họ tạo ra những giá trị

tốt nhất cho xã hội.

d. Vai trò của giá trị

Giá trị có tác dụng như những chuẩn mực, quy tắc để định hướng con người

hướng tới mục tiêu, thúc đẩy và điều chỉnh hành động của con người nhằm đạt tới

những mục tiêu đó. Giá trị là cơ sở của việc đánh giá thái độ, hành vi nào là đúng và

nên có, ngược lại thái độ, hành vi nào là sai và không nên có. Sự thống nhất, ổn

định về tâm lý, tinh thần, đạo đức của cá nhân và xã hội được chỉ đạo bởi các giá trị.

Nó là thang bậc, chuẩn hành vi để các thành viên của xã hội so sánh, đối chiếu,

phân biệt được những hành động và suy nghĩ tốt đẹp, tích cực hoặc tiêu cực, sai

lệch. Các giá trị hình thành nên ý thức, thái độ và sức mạnh dư luận của đạo đức để

đối phó với những hành vi đi ngược lại lợi ích xã hội.

Giá trị có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển nhân cách, đối với mỗi

một con người (cá nhân, nhân cách), giá trị có hai chức năng cơ bản:

Thứ nhất, là cơ sở cho sự hình thành và bảo tồn những định hướng giá trị

trong ý thức của con người, cho phép cá nhân giữ một lập trường xác định,

bày tỏ quan điểm của mình, đánh giá và phê phán. Các giá trị - đó là một bộ

phận của ý thức mà thiếu nó thì không thể có nhân cách được.

Thứ hai, thúc đẩy hành vi, hoạt động, bởi vì sự định hướng của con

người trong thế giới xung quanh và nguyện vọng đạt được các mục đích riêng

lẻ của họ đều được đối chiếu với các giá trị nằm trong cấu trúc nhân cách.

1.2.2. Định hướng giá trị

Định hướng (theo cách hiểu thông thường) nghĩa là lựa chọn, xác định cho

mình lối đi, cách làm hay rộng hơn là hành động, lối cư xử sao cho phù hợp với bản

thân, với tồn tại xung quanh. Hiểu như vậy, “định hướng” có liên quan đến “xu

hướng” trong Tâm lý học.

Theo Từ điển bách khoa toàn thư Xô viết, “Hệ thống định hướng giá trị tạo

thành nội dung xu hướng của nhân cách và là cơ sở bên trong các mối quan hệ giữa

cá nhân với thực tại” [77, tr.66]. Vì thế, khi nghiên cứu “định hướng giá trị” không

thể không tìm hiểu “xu hướng”

Xu hướng là một trong những thuộc tính tâm lý của nhân cách cùng với tính

cách, khí chất và năng lực tạo thành toàn bộ các đặc điểm tâm lý ổn định của con

người, quy định hành vi và giá trị xã hội của cá nhân. Vì thế, Xu hướng được hiểu

là một thuộc tính tâm lý điển hình của cá nhân, bao hàm trong nó một hệ thống

những động lực qui định sự lựa chọn các thái độ của nó” [78, tr.186]. Xu hướng

nhân cách được biểu hiện ở một số mặt chủ yếu như nhu cầu, hứng thú, lý tưởng,

thế giới quan, niềm tin.

Những phạm trù nằm trong xu hướng trên đều hàm chứa nội dung những giá

trị sống mà mỗi cá nhân hay tập thể xác định cho mình trong quá trình hình thành

và phát triển nhân cách. Như vậy, xu hướng có thể được xem là nguồn gốc để nảy

sinh những định hướng giá trị của con người, vì nếu không có những động lực qui

định, người ta sẽ không lựa chọn những giá trị vật chất hay tinh thần tương tự.

Định hướng giá trị được hiểu theo nhiều hướng như:

• “Định hướng giá trị là phương thức chủ thể sử dụng để phân biệt các sự vật

theo ý nghĩa của chúng đối với chính mình, từ đó hình thành nội dung cơ bản của xu

hướng, động cơ hoạt động” [13, tr.60]. Hiểu theo hướng này thì định hướng giá trị

nằm trong nội hàm ý nghĩa của “xu hướng”, và có quan hệ chặt chẽ với các hoạt

động tâm lý tiền thân của sự hình thành nhân cách như tình cảm, ý chí…

• “Định hướng giá trị là khuynh hướng chung đã được qui định về mặt xã hội,

được ghi lại trong tâm lý của cá nhân, nhằm vào mục đích và phương tiện hoạt động

trong lĩnh vực nào đó” [34, tr.56].

• Ladov cho rằng: “Định hướng giá trị là những biểu tượng của con người về

những mục đích chủ yếu của cuộc đời và các phương tiện cơ bản đạt những mục

tiêu ấy. Định hướng giá trị đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các chương

trình hành vi lâu dài. Chúng hình thành trên cơ sở nhu cầu của chủ thể về việc nắm

vững những hình thức cơ bản của hoạt động sống trong những điều kiện lịch sử cụ

thể xác định và do tính chất của các quan hệ xã hội qui định. Các quan hệ xã hội này

là nguồn gốc khách quan hình thành những nhu cầu ấy”.

• Một số tác giả Việt Nam như Phạm Minh hạc, Trần Trọng Thuỷ, Huỳnh

Khái Vinh đều cho rằng “định hướng giá trị là sự lựa chọn, sắp xếp các giá trị với tư

cách là những tiêu chuẩn hành vi của mình, định hướng giá trị là cơ sở bên trong

của hành vi, quyết định lối sống của cá nhân”.

Thật khó có thể thâu tóm khái niệm định hướng giá trong một hai dòng, nên

chúng tôi tiếp cận “định hướng giá trị” theo các ý sau đây:

- Định hướng giá trị là sự lựa chọn, sắp xếp các giá trị với tư cách là những

tiêu chuẩn hành vi của cá nhân hay của nhóm.

- Định hướng giá trị được hình thành trong quá trình cá nhân hoặc nhóm người

gia nhập vào các quan hệ xã hội với tư cách chủ thể của các hoạt động đó, hướng

vào các giá trị có ý nghĩa cơ bản đối với cá nhân hay nhóm.

- Quá trình định hướng giá trị bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố nhận thức

(đánh giá), ý chí và cảm xúc (thử nghiệm) cũng như các khía cạnh đạo đức, thẩm

mỹ trong sự phát triển nhân cách.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!