Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thơ nguyễn bình phương từ góc nhìn liên văn bản
PREMIUM
Số trang
133
Kích thước
5.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
820

Thơ nguyễn bình phương từ góc nhìn liên văn bản

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐẶNG THỊ THANH HƯỜNG

THƠ NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG

TỪ GÓC NHÌN LIÊN VĂN BẢN

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam

Mã số : 82 20121

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

VĂN HỌC VIỆT NAM

Đà Nẵng - Năm 2019

Công trình được hoàn thành tại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI BÍCH HẠNH

Phản biện 1: TS. Lê Thị Hường

Phản biện 2: TS. Nguyễn Thanh Trường

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận

văn tốt nghiệp thạc sĩ Văn học Việt Nam họp tại Đại học Sư

phạm vào ngày 06 tháng 01 năm 2019.

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Thư viện trường Đại học Sư phạm - ĐHĐN

- Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm - ĐHĐN

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Mỗi tác phẩm văn học là “một quần thể giả định của các văn

bản khác”, là sự đan dệt bởi rất nhiều nền văn hóa khác nhau, trong đó

mọi việc đã được nói đến vào một lúc nào đó, trong một ngữ cảnh nào

đó, một văn bản nào đó... Đặt văn bản trong mối quan hệ với các văn

bản khác, Kristeva đã đưa ra lí thuyết liên văn bản có nhiều ý nghĩa

trong việc sáng tạo và thưởng thức tác phẩm văn học hậu hiện đại của

người đọc. Từ đây, mỗi tác phẩm được quan niệm là một sản phẩm

độc lập, tự trị đã được thay vào bằng thuật ngữ mới đó là sản phẩm

của một sự biên tập văn bản văn hoá – lịch sử. Trên “một tấm lụa,

được dệt từ vô số trung tâm văn hoá khác nhau” (R.Barthes), những

đường kênh được thiết lập kích thích năng lực diễn giải từ người đọc

và làm sản sinh, nảy nở những giá trị văn hoá để tạo ra một văn bản

mới tuỳ vào tư duy, năng lực thẩm thấu, nền tảng văn hoá và cả những

trải nghiệm từ vốn sống của bản thân. Khái niệm liên văn bản ra đời đã

dẫn tới những đổi mới trong tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ, đồng

thời là phương thức mang sức “vẫy gọi” người đọc để mở ra những vỉa

tầng ý nghĩa ngoài chủ ý sáng tác của người viết.

Nguyễn Bình Phương là người nghệ sĩ có hành trình sáng tạo

độc lập khi tư duy về một thế giới nghệ thuật khác lạ trong các sáng

tác của mình. Với quan niệm sáng tác văn chương “sống là viết vào

đời câu cách ngôn bí ẩn”, thơ văn Nguyễn Bình Phương vẫn là sự

thách thức với độc giả đương đại khi tìm hiểu, khám phá thế giới hình

tượng đầy kì bí, ma mị được phủ bởi lớp sương khói mơ hồ lảng bảng

đầy dẫn dụ, mê hoặc. Chiếm lĩnh và tái hiện “hiện thực phân mảnh”

vốn hiện tồn trong đời sống thực tại, thơ Nguyễn Bình Phương thực sự

2

là một mê lộ với “trò chơi” chồng xếp nhiều lớp văn hoá, với những

hình thái ý thức xã hội được mã hoá đầy kì diệu, độc đáo. Do đó, đọc

thơ Nguyễn Bình Phương không dễ, đòi hỏi liên tưởng phong phú, sâu

xa ở người đọc trong một trường liên tưởng tích hợp của nhiều vốn

văn hoá, hiểu biết thuộc nhiều lĩnh vực. Có lẽ vì thế mà việc giải mã

thế giới thơ Nguyễn Bình Phương vẫn luôn là niềm hứng khởi đối với

nhiều bạn đọc yêu thơ. Thiết nghĩ, khám phá thơ Nguyễn Bình Phương

bằng việc vận dụng lí thuyết liên văn bản sẽ giúp người đọc tìm thấy

những giá trị được gợi ra trên nền chất liệu có sẵn trước đó và hướng

đến những ám gợi mới mẻ. Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn đề tài

nghiên cứu “Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn liên văn bản”. Đề

tài này nhằm bóc tách những tầng ý nghĩa trong thơ Nguyễn Bình

Phương, qua đó khẳng định một phong cách thơ độc đáo và là cơ sở

khẳng định cho việc dự phần vào quá trình cách tân nền thơ hiện đại

của một nhà thơ “sống bình thường, viết không bình thường” này.

c s v n đề n n cứu

Xuất hiện trên văn đàn như một gương mặt lạ, độc đáo với lối

viết mới mẻ, Nguyễn Bình Phương trở thành một hiện tượng của văn

chương đương đại. Tiếp cận thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bình

Phương chủ yếu là một số bài báo trên tạp chí bàn về một vài khía

cạnh nhất định trong thơ ông:

Dương Kiều Minh trong bài viết Thi ca và cuộc kiếm tìm, có

tên: Nguyễn Bình Phương cho rằng đây là một nhà thơ có “một phong

vị thơ rất riêng đầy trẻ trung đầu thập kỷ 90, thế kỷ XX”. Sự trích dẫn

yếu tố văn học dân gian một cách nhuần nhị đã đánh thức những cảm

xúc đã sẵn tiềm ẩn trong đời sống tâm hồn của con người. Để diễn đạt

3

hết miền nội tâm phức tạp với những cảm xúc tinh tế, Nguyễn Bình

Phương đã sử dụng một kiểu ngôn ngữ khá đặc biệt mà nhân Đọc thơ

Nguyễn Bình Phương, Lê Hồ Quang đã có những phát hiện thú vị, đó

là “ngôn ngữ” khác thường, thứ ngôn ngữ của mộng mị, của những ảo

giác”. Trong Phía khác của mặt trăng, tác giả bài viết đã chỉ ra lối mở

vào đường biên thơ ca Nguyễn Bình Phương chính là một thế giới nhả

màu tượng trưng và siêu thực. Cùng ý kiến trên, Mai Văn Phấn trong

Khuynh hướng cách tân trong thơ Việt Nam sau 1975 đã phần nào

khẳng định sự tương tác về tư duy siêu thực, tượng trưng trong thơ

Nguyễn Bình Phương. Đi sâu hơn vào thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn

Bình Phương ở phương diện thi pháp, Mai Văn Phấn đã có những

đóng góp không nhỏ khi phát hiện ra trong Thi pháp không gian trong

thơ Nguyễn Bình Phương có sự tương tác, kết nối giữa tư duy thơ và

tư duy kiến trúc, hội hoạ. Đặc biệt, cũng trong bài viết đó, Mai Văn

Phấn đã chỉ ra có sự xâm nhập, dung hợp khá thú vị của thể loại văn

xuôi trong cấu trúc thơ. Ở một góc nhìn khác và tập trung vào một tập

thơ “Buổi câu hờ hững”, Đoàn Minh Tâm với Buổi câu hờ hững – một

hồn thơ “tinh quái” Nguyễn Bình Phương lại đặc biệt chú ý đến dấu

ấn “thiền” trong hồn thơ này. Nguyễn Minh Khiêm trong bài viết: Đi

tìm năng lượng chữ trong “Xa xăm gõ cửa” của nhà thơ Nguyễn Bình

Phương đã có phát hiện thơ Nguyễn Bình Phương “giàu phù sa màu

mỡ, nhiều hang động, giàu hướng tiếp cận. Nhiều cái có nghĩa trong

cái tàng hình vô nghĩa” và đề xuất lối đọc liên văn bản trong thơ ông.

Ngoài ra, với luận văn thạc sĩ “Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bình

Phương”, Phạm Ngọc Lan đã phần nào chạm đến tính liên văn bản

trong thơ ông. Cùng với yếu tố hội hoạ, siêu thực được “trích dẫn” thì

biểu tượng cỏ - cây cũng là nét đặc sắc của thi giới bởi vừa mang ý

4

nghĩa khái quát chung nhưng cũng mang đậm tính suy tưởng, chiều

sâu tâm thức hiện đại.

Nhìn chung, các tác giả khi tìm hiểu, nghiên cứu về thơ Nguyễn

Bình Phương đã có những nhận xét, đánh giá về một vài khía cạnh

trong thơ ông. Dẫu có nhiều “dấu chỉ” đáng ghi nhận song qua khảo

sát, chúng tôi nhận thấy vấn đề liên văn bản trong thơ Nguyễn Bình

Phương chưa được nghiên cứu một cách cụ thể và có hệ thống. Đề tài

hi vọng sẽ mở ra một cách tiếp cận mới cho việc tìm hiểu về thơ

Nguyễn Bình Phương, vừa cung cấp phương thức để giải mã những

tầng văn bản sâu kín vừa phù hợp với xu thế nghiên cứu hậu hiện đại.

3 Đố tƣợn , p ạm v n n cứu

- Đối tượng nghiên cứu: thơ Nguyễn Bình Phương qua các tập:

+ Lam chướng (1992)

+ Khách của trần gian (1996)

+ Xa thân (1997)

+ Từ chết sang trời biếc (2001)

+ Thơ Nguyễn Bình Phương (2004)

+ Buổi câu hờ hững (2011)

+ Xa xăm gõ cửa (2015).

- Phạm vi nghiên cứu: thơ Nguyễn Bình Phương nhìn từ các yếu

tố liên văn bản, tập trung một số biểu hiện ở phương diện tư duy nghệ

thuật và phương thức trữ tình.

4 G ớ t uyết t uật n ữ

Liên văn bản (intertextuality) – một thuật ngữ gắn với văn học

hậu hiện đại do nhà phê bình chủ nghĩa nữ quyền Julia Kristeva đề

xuất vào cuối những năm 60 của thế kỉ XX trong bài viết Bakhtin, từ,

5

đối thoại và tiểu thuyết trên cơ sở nghiên cứu kĩ lưỡng công trình của

M.Bakhtin: Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức trong nghệ thuật

sáng tác ngôn từ (1924). Theo Kristeva, không có văn bản nào thực sự

cô lập, như một sự sáng tạo tuyệt đối; mỗi văn bản là một liên văn bản,

là sự hấp thụ và biến đổi của những văn bản khác, là một tấm vải mới

dệt từ những trích dẫn cũ. Theo đó, văn bản có những mối quan hệ liên

văn bản trong mạng lưới từ cấp độ vi mô đến vĩ mô: kí ức ngôn ngữ,

sự biến tấu và tái sinh các thủ pháp, mô-típ, hình tượng, sự mô phỏng,

giễu nhại, nhại, vay mượn, trích dẫn, chuyển thể, chuyển dịch, biến

đổi, ảnh hưởng, đọc sai, ám chỉ, đạo văn, pha trộn thể loại...

Một mặt, liên văn bản được hiểu như một thủ pháp văn học, mặt

khác còn được hiểu như là thuộc tính bản thể của mọi văn bản (“bất kì

văn bản nào cũng là liên văn bản” - R. Barthes). Liên văn bản được

vận dụng trong sáng tác văn học, thỏa mãn tư duy nghệ thuật của

người nghệ sĩ và tâm thế đón đọc của người tiếp nhận. Và với thơ, tính

liên văn bản có thể mở rộng đến vô cùng đến mọi chiều kích với đặc

trưng thế giới nghệ thuật ngôn từ riêng có.

5 P ƣơn p áp n n cứu

- Phương pháp hệ thống – cấu trúc

- Phương pháp phân tích – tổng hợp

- Phương pháp so sánh, đối chiếu

- Phương pháp loại hình

Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi còn sử dụng

phương pháp liên ngành khác nhằm làm nổi bật tính liên văn bản trong

mỗi văn bản thơ Nguyễn Bình Phương.

6

6 Đón óp của đề tà

- Đề tài tiếp cận, nghiên cứu thế giới thơ Nguyễn Bình Phương

một cách có hệ thống trong sự tương tác, dung hợp, pha trộn với các

văn bản khác góp phần tìm thấy cấu trúc thơ mở với nhiều chiều kích

của phong cách thơ này.

- Với phương pháp nghiên cứu liên văn bản, đề tài phần nào giải

mã một số tín hiệu thẩm mĩ ở chiều sâu của tư duy nối dài văn hóa –

văn học trong thơ Nguyễn Bình Phương, từ đó mở ra các hướng tiếp

cận thơ, kích hoạt đường dẫn làm tăng sức nhập cuộc từ bạn đọc để

tiếp tục khai mở những ý nghĩa mới mẻ từ văn bản. Qua đó, góp phần

khẳng định một tư duy thơ có nhiều sáng tạo và độc đáo làm nên cá

tính sáng tạo của Nguyễn Bình Phương cũng như đóng góp của nhà

thơ cho thơ Việt đương đại.

7 ố c c của uận v n

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm có ba chương:

Chương 1. Đặc trưng thẩm mĩ của thơ Việt Nam sau 1986 và

hiện tượng Nguyễn Bình Phương

Chương 2. Thơ Nguyễn Bình Phương – Tư duy nghệ thuật

mang tính đối thoại

Chương 3. Thơ Nguyễn Bình Phương – Tương tác giữa các mã

hình thức biểu hiện

7

CHƢƠNG 1

ĐẶC TRƢNG THẨM MĨ CỦA THƠ VIỆT NAM SAU 1986

VÀ HIỆN TƢỢNG NGUYỄN ÌNH PHƢƠNG

1 1 T ơ V ệt Nam sau 1986 – n ữn tìm tò từ tƣ duy n ệ t uật

đến kĩ t uật v ết

1.1.1. Đào sâu vào bản thể của cái tôi

Sau năm 1986, để hòa cùng dòng chảy thơ ca thế giới cũng như

đối diện với đời sống hiện thực thậm phồn, thơ ca Việt Nam cần đổi

mới như một sự cần thiết để tồn tại. Thơ ca đương đại hướng đến việc

đào sâu vào cái tôi như cuộc thăm dò vào “miền đất lạ” ẩn chìm để

khám phá đến tận cùng vẻ đủ đầy của hiện thực sống. Các nhà thơ viết

bằng vốn sống, trải nghiệm của chính mình, cất tiếng nói khát đòi chân

thành của bản thể, viết như một sự thực hành sống một cách đủ đầy,

thê thiết. Cùng với đó, giữa hỗn mang của cuộc sống bất toàn, một số

nhà thơ nguyện “lộn trái” mình để phơi diễn tận cùng nỗi đau của bản

thể. Sự phát triển của chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa tượng trưng trong

nền văn học thế giới đã dẫn lối cho các nhà thơ phương thức “trôi dạt”,

“dò tìm” vào tận cùng đời sống của bản thể với vùng mờ tâm linh bí

ẩn. Với chủ trương lối thơ phiêu vào cõi khác của miền tâm thức, cõi

vô thức siêu hình, thơ Nguyễn Bình Phương khao khát tìm mình giữa

muôn nghìn mặt khác trong cuộc truy tìm, lật trở đến mức tự cấu bản

diện. Trên tinh thần liên văn bản, sự vực dậy của văn hóa – tín ngưỡng

dân gian, tâm thức cộng đồng và sự nương nhờ chủ nghĩa siêu thực,

tượng trưng kết hợp với cảm hứng thiền… thơ Nguyễn Bình Phương

đã phát lộ bản thể người trong những biểu hiện sâu kín, phức tạp nhất

của nó.

8

1.1.2. Cách tân hình thức trữ tình – trò chơi “lạ hoá”

Cùng với sự đổi mới tư duy nghệ thuật ở mặt nội dung, thể tài,

thơ Việt Nam sau 1986 còn chứng kiến sự bùng nổ của những lối viết

lạ từng gây tranh cãi. Các nhà thơ Việt sử dụng ngôn ngữ như một thứ

trò chơi quyền lực với vô vàn những luật chơi mà ở đó tác giả sẽ

“chơi” cùng người đọc. Cùng với ngôn ngữ, cấu trúc thơ cũng được

các tác giả đặc biệt quan tâm khi thiết lập khá nhiều kiểu chơi cấu trúc

độc đáo nhằm dung chứa hiện thực như nó “vốn là” ngoài đời sống. Là

một trong những nhà thơ tiên phong đã âm thầm “khởi cuộc” khai phá

những “miền đất mới” trong thơ đương đại Việt Nam cuối thế kỉ XX,

Nguyễn Bình Phương trong hành trình sáng tạo luôn ý thức đổi mới

hình thức thơ như một cách thế để tồn tại. Bằng những sáng tạo về

ngôn từ, hình ảnh, kết cấu,… thơ Nguyễn Bình Phương đã dựng lại cả

một thế giới đầy ám ảnh, ma mị với những biểu tượng đa tuyến, phức

điệu của vô thức, tiềm thức, tâm linh.

1 N uyễn ìn P ƣơn vớ quan n ệm n ệ t uật t ơ

1.2.1. Nguyễn Bình Phương – nhà thơ của “nhiều u uất”

Xuất thân từ một nhà văn quân đội, ở Nguyễn Bình Phương có

sự trầm tĩnh, ôn hòa. Chính cái trầm tĩnh, điềm nhiên, ít nói lại là sự

nén vào bên trong những bộn bề suy tư. Bước vào thế giới nghệ thuật

thơ, Nguyễn Bình Phương vẫn giữ tâm thế ấy cho hành trình sáng tạo,

cho suy tư nghệ thuật để khai sâu vào cái “vùng tối” u uất, khuất lấp

của chính mình. Trong sáng tạo nghệ thuật, mỗi người nghệ sĩ đều có

một vùng thẩm mĩ của riêng mình. Trở đi trở lại nhiều lần trong thơ

Nguyễn Bình Phương là những ám gợi từ vùng đất Thái Nguyên với

những đồi núi trập trùng, quanh năm nằm lặng lẽ, u trầm trong sương

9

mù giăng mắc đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ra cái u uất của

hồn thơ. Tự đánh giá về cái tạng “hơi u uất” của mình, nhà thơ khẳng

định nét độc đáo trong phong cách ấy lại là biểu hiện của cái tôi suy

nghiệm, day dứt về cuộc sống cũng là điểm thôi thúc dẫn lối của sáng

tạo nghệ thuật.

1.2.2. Quan niệm nghệ thuật thơ “Sống bình thường, viết

không bình thường”

Nguyễn Bình Phương tâm niệm “Sống bình thường viết không

bình thường hay hơn là viết bình thường, sống không bình thường”.

Nhà thơ luôn tri nhận con người vốn phức tạp cho nên cái “viết bình

thường” chẳng mang đến điều gì cho hoạt động sáng tạo văn chương.

Hơn nữa, khi mọi yếu tố phức tạp trong đời sống với tâm thế tồn tại

cùng đối thoại, cuộc sống in dấu trên trang thơ cần được vẹn nguyên,

đa diện, đa sắc. Và điều đó không cho phép người nghệ sĩ tri nhận,

phản ánh về cuộc sống một cách đơn giản, một chiều. Định hướng

điều đó trong sáng tác, nhà thơ vận dụng kĩ thuật liên văn bản trở

thành một đặc điểm nghệ thuật đáng quan tâm.

1.2.3. Nhà thơ với hành trình vào “cõi lạ”

Mỗi tập thơ của Nguyễn Bình Phương khi xuất hiện đều gây nên

sự ngỡ ngàng bởi những thử nghiệm về tư duy nghệ thuật và kĩ thuật

viết. Từ Lam chướng đến Khách của trần gian, Xa thân, Từ chết sang

trời biếc, Buổi câu hờ hững cho đến tập Xa xăm gõ cửa, Nguyễn Bình

Phương đã thực sự “tựa luồng gió lao rừng rực”.

Lam chướng – sản phẩm đầu tay của nhà thơ đã tạo nên bước

đột phá khá quyết liệt vào âm hưởng cũ kĩ, sáo mòn của thơ Việt thời

hậu chiến để “kết cấu” lại những giá trị thi pháp mới. Cái cõi lạ ấy toát

ra từ một bầu không khí bảng lảng vừa gây rợn người vừa mang sức

10

hấp dẫn mê dụ không cưỡng lại được. Từ thành công ở Lam chướng,

Nguyễn Bình Phương tiếp tục thử nghiệm và gây chú ý dư luận với

Khách của trần gian. Những chiêm nghiệm về nhân thế và phận người

cùng thế giới bí huyền, huyễn ẩn của đời sống tâm linh đã làm nên

màu sắc lạ cho tập thơ này. Với Từ chết sang trời biếc, tràn ngập thi

giới là những đoạn kí ức lắp ghép vươn đến những khoảng trời biếc

mang những run rẩy, phập phồng với nỗi sợ vô hình se sẽ động hờ sợ

như trôi tụt mất. Hành trình đi “tìm mặt” chẳng bao giờ thôi dậy sóng

trong cái tôi đầy “u uất” Nguyễn Bình Phương. Nếu như ở những tập

trước đó, cuộc tìm kiếm tha nhân vẫn còn thể hiện ẩn mình sau những

dòng thơ chiêm nghiệm về thế phận thì nay trong Xa thân, điều đó trở

thành cảm hứng chủ đạo.

Trong số các tập thơ, Buổi câu hờ hững dường như “lạc loài”.

Cái cõi lạ ở tập thơ này chính là chỗ con người lướt qua nhau bằng

“gương mặt lơ vơ” mang theo nỗi cô đơn, trống trải. Xa xăm gõ

cửa được phát hành khi Nguyễn Bình Phương ở tuổi 50, sức sáng tạo

vẫn đang dồi dào. Tuyển thơ chưa phải những gì tinh túy nhất, nhưng

nó cho phép độc giả hình dung bao quát một chặng đường thơ Nguyễn

Bình Phương. Đó là kiểu thơ “giàu phù sa màu mỡ, nhiều hang động,

giàu hướng tiếp cận. Nhiều cái có nghĩa trong cái tàng hình vô nghĩa”.

Bằng cách đọc liên văn bản, mỗi người đọc sẽ tìm thấy năng lượng dồi

dào được nghiền ngẫm từ “mỏ quặng” hiện thực đầy độc sáng của

Nguyễn Bình Phương. Và sự giải mã “cõi lạ” ấy cho phép chúng ta

được thấy nhiều hơn những gì hiển hiện sau bề mặt câu chữ mà nhà

thơ nén vào bên trong chờ bung tỏa từ sự đồng sáng tạo ở người đọc.

11

CHƢƠNG

THƠ NGUYỄN ÌNH PHƢƠNG –

TƢ DUY NGHỆ THUẬT MANG TÍNH ĐỐI THOẠI

1 Tƣơn tác ữa các mã v n oá

2.1.1. Giải thiêng “thần tượng” – “dò tìm” lại bản thể đã “bị

đánh cắp”

Trong văn học, “giải thiêng” là cách tái dựng hiện thực ở một

góc độ khác, đưa tiền nhân về gần hơn với hậu thế, khai thác những

khía cạnh con người đời thường của các thần tượng để hậu thế có cái

nhìn toàn diện, biện chứng và dân chủ hơn. Nhân vật trở thành thần

tượng mang tính siêu linh mà con người hằng tôn thờ, kính ngưỡng

chính là thần thánh, tiên bụt tiếp đến là sư chùa với niềm tin tôn giáo

linh thiêng. Qua thơ Nguyễn Bình Phương, trong con người đã gửi

phần đời cho đức Phật vẫn không thể phủ nhận, đoạn tuyệt những gì là

bản thể xác phàm: Sư ông vào rừng xem chim Từ Quy/ Nó sắp sửa gọi

nhau/ Gọi cái người không thương cho trót (Dằng dặc). Và dành cho

những vị vua trị vị trên ngai vàng niềm cảm thông sâu sắc khi phải

“suốt đời thỏa hiệp”, cũng chỉ là một bi kịch lớn, bi kịch phải làm một

anh hùng. Cùng với những chân dung anh hùng lịch sử, đấng cứu thế

thần bụt của đời sống tâm linh, trong thơ Nguyễn Bình Phương còn có

sự hiện diện của những chân dung văn học từng chịu bi kịch bị “đóng

đinh” trong nhận thức con người về những gì riêng khác.

Giễu nhại sự cả tin vào tính chất bất biến của con người, nhà thơ

đã tìm thấy câu chuyện đời thường trong những câu chuyện lịch sử, đã

nghe thấy tiếng nói bản thể sau những lí tưởng thời đại của con người

“vĩ nhân”. Lịch sử được viết tiếp với những “khoảng trắng” bỏ ngỏ.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!