Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thơ mới, nhìn từ góc độ loại hình
PREMIUM
Số trang
149
Kích thước
1.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1630

Thơ mới, nhìn từ góc độ loại hình

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

MỤC LỤC

MỞĐẦU..................................................................................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................3

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu..........................................................................3

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài..............................................................4

5. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................................5

6. Cấu trúc của luận án...............................................................................................6

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU THƠ MỚI TỪ GÓC ĐỘ

LOẠI HÌNH ..................................................................................................................7

1.1. Nghiên cứu loại hình Thơ mới giai đoạn trƣớc 1945 .........................................7

1.2. Nghiên cứu loại hình Thơ mới giai đoạn 1945 - 1954.......................................19

1.3. Nghiên cứu loại hình Thơ mới giai đoạn từ 1954 - 1975..................................21

1.4. Nghiên cứu loại hình Thơ mới từ 1975 đến nay ...............................................26

1.5. Tiểu kết.................................................................................................................30

CHƢƠNG 2. VẤN ĐỀNGHIÊN CỨU LOẠI HÌNH VĂN HỌC VÀLOẠI HÌNH THƠ...32

2.1. Loại hình học văn học: những tiền đề lịch sử và nhận thức.............................32

2.2. Từ lý thuyết đến thực tiễn ứng dụng .................................................................44

2.3. Nghiên cứu loại hình thơ......................................................................................49

2.4. Tiểu kết.................................................................................................................52

CHƢƠNG 3. LOẠI HÌNH THƠ MỚI, NHÌN TỪ ĐẶC TÍNH KIỂU TƢ DUY .53

3.1. Tƣ duy thơ là gì?...................................................................................................53

3.2. Tính dân tộc và thời đại trong kiểu tƣ duy Thơ mới ........................................56

3.3. Thơ mới - diễn ngôn của con ngƣời cá nhân trong môi trƣờng đô thị kiểu

phƣơng Tây ..................................................................................................................68

3.4. Từ Thơ trung đại đến Thơ mới: sự dịch chuyển của những đặc trƣng loại hình .....79

3.5. Từ Thơ mới đến những hình thái thơ sau Thơ mới.........................................91

3.6. Tiểu kết...............................................................................................................102

CHƢƠNG 4. LOẠI HÌNH THƠ MỚI, NHÌN TỪ CẤU TRÚC KIỂU TƢ DUY ......104

4.1. Quan niệm về chất thơ: hạt nhân trong cấu trúc kiểu tƣ duy thơ.................104

4.2. Cách kiến tạo thế giới nghệ thuật của Thơ mới...............................................112

4.2.1. Mô hình kiến tạo thế giới nghệ thuật của Thơ mới........................................112

4.2.2. Kiến tạo nhạc tính của Thơ mới .....................................................................118

4.2.2.1. Âm thanh trong Thơ mới - kiến tạo giai điệu .................................................118

4.2.2.2. Kiến tạo nhịp điệu của Thơ mới .....................................................................122

4.2.3. Kiến tạo âm điệu của Thơ mới........................................................................127

4.3. Tiểu kết...............................................................................................................134

KẾT LUẬN.......................................................................................................................................................................136

TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................................................................141

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Thơ mới, một khái niệm cho đến giờ đã đặt chúng ta vào những phạm trù nghĩa

khá đa dạng, cần phải suy xét kỹ lƣỡng hơn. Bản thân khái niệm này đã hàm chứa trong

đó sự tƣơng sánh với Thơ cũ, đồng thời nó cũng mang ý nghĩa là một thời đoạn trong

lịch sử thơ ca dân tộc, Thơ mới còn là một trào lƣu, một phong cách, một kiểu – một

loại hình thơ. Thậm chí, trong suy nghĩ về những động hƣớng của một nền văn học, thơ

ca tiên tiến, Thơ mới còn đặt ra yêu cầu có tính cốt thiết về tƣ duy, tâm thế, bản chất của

sáng tạo nghệ thuật. Luận án, Thơ mới, nhìn từ góc độ loại hình tập trung vào khía

cạnh loại hình, kiểu/ lối Thơ mới nhằm chỉ ra tƣ cách loại hình của Thơ mới trong tƣơng

quan với những hình thái thơ trƣớc và sau nó. Nhƣ thế, những vấn đề căn bản làm động

lực cho sự lựa chọn nghiên cứu chính là: Thơ mới có phải là một loại hình thơ không?

Những điều kiện sinh thành, vận động và phát triển của Thơ mới, đặc tính và cấu trúc

của loại hình trên phƣơng diện cốt yếu là kiểu tƣ duy cho phép Thơ mới hiện diện với tƣ

cách loại hình trong tiến trình thơ trữ tình của Việt Nam. Những nghiên cứu đã có về

Thơ mới đã manh nha đề cập đến vấn đề loại hình, tuy nhiên, sự nghiên cứu một cách hệ

thống, giới thuyết rõ về loại hình thơ, loại hình Thơ mới với những tiêu chí loại hình cụ

thể cho đến nay lại chƣa có. Điều đó khiến cho vấn đề của luận án trở nên hữu ích hơn

trong lịch sử nghiên cứu Thơ mới nói riêng và tiến trình thơ Việt nói chung.

Nghiên cứu Thơ mới trong giai đoạn hiện nay thực sự là một thử thách. Trong

các thƣ viện, trƣờng học, viện nghiên cứu ngƣời ta có thể điểm ra hàng trăm công trình

nghiên cứu về Thơ mới từ tác giả đến tác phẩm, khuynh hƣớng, trƣờng phái, thi pháp,

ngôn ngữ, phong cách, thể loại,… Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của triết học nhân

sinh, triết học ngôn ngữ, khoa học xã hội nhân văn, sự du nhập của các lý thuyết,

phƣơng pháp nghiên cứu văn học hiện đại, Thơ mới lại có thêm cơ hội để đƣợc soi

chiếu, thảo luận một cách toàn vẹn hơn. Hẳn những nhà nghiên cứu hiện nay không

phủ nhận hƣớng nghiên cứu từ góc độ Phân tâm học, Cấu trúc luận, Hiện tƣợng luận,

Nữ quyền luận, nghiên cứu Thơ mới từ lý thuyết diễn ngôn, lý thuyết Trƣờng văn học,

Nhân học văn hóa, Xã hội học văn học, Mỹ học tiếp nhận, Giải cấu trúc,... đem đến

nhiều gợi ý cho việc tiếp cận Thơ mới. Bên cạnh đó, vấn đề thực thể Thơ mới vẫn

chƣa đƣợc mô tả một cách toàn vẹn với sự vắng mặt của những tác giả, tác phẩm bàn

2

nhì, bàn ba, những diễn ngôn góp phần kiến tạo Thơ mới nhƣng không có mặt trong

các “điện thờ” hay bị xem nhẹ, bị mặc nhiên biến thành các diễn ngôn phụ trợ, làm tôn

lên các đỉnh cao. Mặt khác những nghiên cứu ở miền Nam thời kỳ 1954 - 1975 về Thơ

mới cũng chƣa đƣợc chú ý thỏa đáng để thấy rằng thành tựu nghiên cứu Thơ mới trong

tri thức phổ thông vẫn đầy thiếu khuyết.

Trong bối cảnh những giá trị truyền thống đang chìm đắm trong khủng hoảng nội

tại đòi hỏi đƣợc giải quyết, các tín hiệu mới từ phƣơng Tây đang du nhập và ảnh

hƣởng mạnh mẽ, đòi hỏi đƣợc khẳng định, đƣợc sinh tồn, văn học là hình thái cơ bản

để biểu đạt những vận động lớn lao, tinh vi ấy. Thơ mới đã hấp thu và biểu hiện trong

mình những giao lƣu vừa đa dạng, vừa phong phú, cả những bí ẩn còn chƣa thể tƣờng

giải. Trong suốt chiều dài nghiên cứu Thơ mới, các thành tựu đã có chƣa phải đã là

đáp số cuối cùng, dĩ nhiên nó cũng đã làm thỏa mãn nhiều trí lực.

Các nhà nghiên cứu, những ngƣời quan tâm có thể liệt kê nhiều công trình nghiên

cứu lớn nhỏ, ở mọi cấp độ về Thơ mới. Tuy nhiên, xem xét Thơ mới từ lý thuyết loại

hình với một hệ nguyên tắc nhận diện, đặt trong tiến trình thơ Việt từ khởi thủy đến

hiện đại hay nhìn ra nền thơ cận hiện đại của các nƣớc trong khu vực Đông Á lại là

vấn đề chƣa đƣợc luận giải một cách hệ thống. Thơ mới, nhìn từ góc độ loại hình

thực sự đặt ra vấn đề cần phải giải quyết.

Nghiên cứu Thơ mới, quy luật sáng tạo của loại hình thơ này (một loại hình thơ

phát triển rực rỡ bậc nhất trong lịch sử thơ trữ tình Việt Nam) giúp chúng ta có cái nhìn

chân xác hơn về diễn trình và sự vận động của mỹ học thơ ca dân tộc. Từ đó, hình thành

những nhận thức có tính nguyên lý về mỹ học của loại hình thơ trữ tình nói chung.

Việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập, thƣởng thức Thơ mới cần có những định

hƣớng đa dạng hơn, toàn diện hơn để phù hợp với sự đa dạng, phong phú, tính phức

tạp của bản thân Thơ mới. Đồng thời, trong bối cảnh đƣơng đại, việc nhận diện một

hiện tƣợng thơ ca của quá khứ lại càng phải đƣợc tiến hành một cách toàn diện bởi

chính những công cụ của thời đại sau soi chiếu lại các hệ giá trị của thời đại đã qua.

Thơ mới cần đƣợc nghiên cứu dƣới góc độ là một hiện tƣợng văn hóa. Điều đó thiết

nghĩ sẽ đƣợc bổ sung chính từ những kết quả nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu,

nhiều thế hệ,...

3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích: Luận án hƣớng đến việc mô tả, lý giải và khẳng định: Thơ mới là một

loại hình thơ trong tiến trình thơ trữ tình Việt Nam từ khởi thủy đến hiện đại.

Nhiệm vụ của luận án:

- Mô tả lịch sử nghiên cứu vấn đề Loại hình Thơ mới

- Giới thuyết về lý thuyết loại hình trong nghiên cứu văn học và thơ ca

- Mô tả và lý giải để minh chứng tƣ cách loại hình của Thơ mới trong tiến trình thơ

Việt Nam từ khởi thủy đến hiện đại. Đồng thời luận án cũng mở ra hƣớng nghiên cứu loại

hình Thơ mới nhƣ một hiện tƣợng có tính quy luật trên phạm vi khu vực Đông Á.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu: Thơ mới Việt Nam 1932 – 1945 với tƣ cách là một lối thơ,

kiểu thơ – một loại hình. Trong thực tế, đối tƣợng Thơ mới 1932 - 1945 rất lớn. Ý thức

đƣợc điều này chúng tôi chỉ khảo sát những tác giả, tác phẩm đã đƣợc tuyển chọn

trong công trình Thơ mới 1932 - 1945 tác giả và tác phẩm, Nhà xuất bản Hội Nhà văn,

tái bản lần thứ 6, năm 2004.

Phạm vi nghiên cứu: xem xét Thơ mới trong tiến trình thơ Việt Nam, nhận diện

loại hình Thơ mới trong sự tƣơng sánh với loại hình Thơ trung đại và một vài hình thái

thơ sau Thơ mới. Nhƣ thế, luận án hƣớng vào nghiên cứu nội quan Thơ mới để chỉ ra

sự khác biệt làm nên tƣ cách loại hình của nó. Nghĩa là nghiên cứu sự biến đổi về đặc

tính và cấu trúc của bản thân Thơ mới đồng thời không tách rời nó khỏi tổng thể là tiến

trình thơ trữ tình Việt Nam.

Để khẳng định Thơ mới là một loại hình thơ chúng tôi hình thành một trục

nghiên cứu có tính chất quy chiếu để nhận diện loại hình Thơ mới: Kiểu tư duy Thơ

mới. Từ kiểu tƣ duy Thơ mới, các vấn đề: quan niệm về chất thơ, hình thức tổ chức

văn bản ngôn từ nghệ thuật đặc thù của Thơ mới, các phương tiện nổi bật (nổi bật

nhất của loại hình này mà yếu hoặc không biểu hiện ở loại hình khác) để kiến tạo thế

giới nghệ thuật,...

4

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Đề tài đem đến những kiến giải có tính tổng quát về Thơ mới trên phƣơng diện là

một loại hình thơ, đóng góp vào lịch sử diễn giải, nghiên cứu và định vị Thơ mới Việt

Nam 1932 - 1945 trong tiến trình thơ Việt Nam từ khởi thủy đến hiện đại và đề xuất

nghiên cứu Thơ mới trong bối cảnh thơ ca khu vực Đông Á thời cận hiện đại.

Xem xét Thơ mới trong tính tự trị của một trƣờng văn học cùng với sự lý giải từ

các thiết chế, bối cảnh tạo nên “chân lý”, “tri thức”, “quyền lực” (M. Foucault) của

diễn ngôn Thơ mới, hẳn ngƣời nghiên cứu sẽ hiểu vì sao Thơ mới đƣợc sinh ra, tồn tại,

vận hành và tiêu vong, kể cả những “đứt đoạn” mang sử tính trong diễn trình của thơ

Việt từ khởi thủy đến hiện đại. Các vấn đề về sự phân tranh mới cũ hay chính là sự đối

thoại tranh giành quyền lực của các diễn ngôn. Chân lý của thời đại luôn là sự áp chế

và loại trừ những tri thức, chân lý của thời đại khác, của các diễn ngôn khác. Hệ thống

thiết chế mới đƣợc dựng nên là căn nguyên của sự sinh thành một diễn ngôn mới, tạo

nên các trật tự diễn ngôn nhƣ ta đã thấy. Diễn ngôn về diễn ngôn Thơ mới, nhà in, báo

chí, chữ quốc ngữ, sự truyền bá văn hóa phƣơng Tây, sự biển đối của đô thị phong

kiến phƣơng Đông sang mô hình đô thị kiểu phƣơng Tây, sự hình thành các giai tầng

mới, con ngƣời thị dân tƣ sản,… chính là những thiết chế, những “huyền thoại” có

hiệu lực áp chế, giải trừ các thiết chế lỗi thời, xác lập quyền lực của nền văn hóa tƣ sản

trong đó có Thơ mới.

Nghiên cứu Thơ mới từ góc độ loại hình giải quyết đƣợc một vấn đề quan trọng

nhất của bản thân diễn ngôn Thơ mới chính là mối quan hệ: quyền lực - chân lý của nó

với các diễn ngôn của quá khứ (của nó) và diễn ngôn hình thành sau nó (với tham

vọng phủ định, chôn vùi Thơ mới). Nghĩa là, dù cho các nghiên cứu đã có về kết cấu,

giọng điệu, thể loại, vẫn cần phải xem xét Thơ mới trong tƣ cách là một loại hình, một

chỉnh thể vẹn nguyên. Lý thuyết loại hình với quan điểm về “định tính loại hình” xem

kết cấu, giọng điệu, thể loại,… là những cấp độ nhỏ hơn của bản thân một loại hình

thơ (tiểu loại hình), lại vừa là những tham số để khảo sát loại hình tổng quát: Thơ mới.

Chính vì thế, bản thân các tham số ấy chƣa đủ tƣ cách trở thành một “phổ niệm loại

hình” (Stankevic) khi đặt trong tƣơng quan với loại hình Thơ trung đại và Thơ hậu

Thơ mới - Thơ đƣơng đại.

5

Từ đề tài, vấn đề lý thuyết loại hình trong nghiên cứu văn học và trong nghiên

cứu thơ đƣợc giới thuyết mạch lạc hơn.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phƣơng pháp loại hình

Đề tài của luận án là Thơ mới, nhìn từ góc độ loại hình, vì thế phƣơng pháp loại

hình là phƣơng pháp chủ đạo của luận án trong quá trình giải quyết vấn đề. Phƣơng

pháp này đòi hỏi các thao tác thống kê, phân tích, so sánh, phân loại, tổng hợp, đánh

giá,... nhằm nhận diện loại hình Thơ mới trong thế đối thoại với các loại hình thơ trƣớc

và sau Thơ mới trong hành trình thơ trữ tình Việt Nam.

5.2. Phƣơng pháp so sánh

Giữa phƣơng pháp và thao tác đôi khi có nhiều sự nhập nhằng không dễ phân định.

Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp so sánh trƣớc hết nhƣ một ý thức về hƣớng giải quyết

vấn đề tƣơng đồng loại hình, khác biệt loại hình của Thơ mới với các loại hình thơ trƣớc

và sau nó. Mặt khác, trong quá trình thực hiện, thao tác so sánh chính là những hành

động cụ thể nhằm thực hiện nhiệm vụ so sánh loại hình đã đƣợc tiên nghiệm.

5.3. Các phƣơng pháp nghiên cứu nhân học văn hóa

Các phƣơng pháp nghiên cứu nhân học tỏ rõ ƣu thế trong việc thâm nhập vào cấu

trúc tâm lý, tƣ duy và mỹ cảm của con ngƣời cá nhân cá thể. Lịch sử thơ ca là lịch sử

của nhiều loại hình, vì thế, tính đồng đại và lịch đại trong cái nhìn hệ thống cần đƣợc ý

thức và đồng thời đƣợc giải quyết trong quá trình thâm nhập các cấu trúc tƣ duy, mỹ

cảm của con ngƣời ở từng thời kỳ khác nhau. Nhân loại học văn hóa là một ngành

nghiên cứu, một khoa học vì thế nó có nhiều phƣơng pháp, chúng tôi sử dụng những

phƣơng pháp của nhân loại học văn hóa nhƣ phân tích cấu trúc, phƣơng pháp suy luận

sử quan, phân tích xã hội học, phân tích ký hiệu học,...

5.4. Các phƣơng pháp nghiên cứu tâm lý học sáng tạo

Tâm lý học sáng tạo cũng mang tham vọng thâm nhập vào bề sâu của hoạt động

sáng tạo nghệ thuật. Hƣớng nghiên cứu lấy Kiểu tƣ duy làm trục lõi trong luận án tự

nó tìm đến tâm lý học sáng tạo nhƣ một phƣơng pháp đặc thù trong nghiên cứu thơ.

Các phƣơng pháp nghiên cứu tâm lý học sáng tạo có thể mang lại những mô tả tƣơng

6

đối về quá trình sáng tạo nghệ thuật thơ cùng với các thao tác trong trí tƣởng, tinh thần

thi sĩ. Cùng với phân tích thế giới nghệ thuật từ các dấu hiệu biểu trƣng trên bề mặt

văn bản nhƣ một hệ thống ký hiệu, nghiên cứu tâm lý học sáng tạo rất cần một năng

lực cảm nhận, trực giác đôi khi không thể lý giải bằng thực nghiệm.

5.5. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành

Nghiên cứu liên ngành là hƣớng nghiên cứu ngày càng phổ biến và hiệu quả.

Thực ra, bản thân các ngành nghiên cứu Văn học so sánh, Loại hình học, Nhân loại

học văn hóa, Xã hội học,... đã thích ứng và thâu nạp trong nó tính ƣu việt của nhiều

phƣơng pháp nghiên cứu trong các ngành khác. Sử dụng liên ngành các phƣơng pháp

là một cơ hội để vấn đề đƣợc soi chiếu nhiều chiều hơn, tránh đƣợc sự phiến diện và

duy ý chí.

6. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án đƣợc cấu

trúc thành 4 chƣơng:

Chƣơng 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Thơ mới từ góc độ loại hình

Chƣơng 2. Vấn đề nghiên cứu loại hình văn học và loại hình thơ

Chƣơng 3. Loại hình Thơ mới nhìn từ đặc tính kiểu tư duy

Chƣơng 4. Loại hình Thơ mới nhìn từ cấu trúc kiểu tư duy

Phụ lục: Thơ mới trong bối cảnh phát triển của thơ Đông Á đầu thế kỷ XX

7

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU THƠ MỚI TỪ GÓC ĐỘ LOẠI HÌNH

Dù đã có lịch sử nghiên cứu hơn 80 năm, nhƣng Thơ mới, nhìn từ góc độ loại hình

lại chƣa đƣợc đặt ra và giải quyết một cách hệ thống. Nhìn lại những nỗ lực của ngƣời đi

trƣớc, vẫn có thể nhận ra những dấu vết móng nền đã đƣợc ƣớm định. Để tiện cho việc

theo dõi tiến trình nghiên cứu loại hình Thơ mới, chúng tôi chọn cách trình bày lịch sử

vấn đề theo thời gian. Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát tƣ liệu, chúng tôi nhận ra

không có một công trình nào có tính chất toàn diện, hệ thống, giải quyết vấn đề Thơ mới

là một loại hình thơ mà chủ yếu tập trung vào các vấn đề thi pháp, thể loại, các khuynh

hƣớng sáng tác, kết cấu, giọng điệu,... Trong dòng chảy của thời gian, các vấn đề nghiên

cứu đã nêu đều đụng chạm đến những khía cạnh tiểu loại hình trong loại hình Thơ mới.

Về mặt lý thuyết, thể loại, giọng điệu, kết cấu hay khuynh hƣớng, trƣờng phái đều là các

tiểu loại hình của một loại hình thơ. Có thể đặt ra các vấn đề nhƣ loại hình tác giả, loại

hình khuynh hƣớng (tƣợng trƣng, lãng mạn, siêu thực...), loại hình kết cấu, loại hình

giọng điệu trong Thơ mới,... Sự phong phú của các hƣớng nghiên cứu ấy nhƣ một đòi

hỏi đến lúc cần phải có một sự tổng hợp, quy chiếu để nhận diện loại hình Thơ mới với

tƣ cách là một loại hình thơ xét trong tiến trình thơ Việt từ khởi thủy đến hiện đại và

nhìn ra các nền thơ trữ tình cận hiện đại của các quốc gia Đông Á.

1.1. Nghiên cứu loại hình Thơ mới giai đoạn trƣớc 1945

Nhìn nhận ở bình diện tổng quát có thể thấy rằng chính cuộc tranh luận Mới - Cũ

lại là cuộc tranh biện có tính toàn diện nhất về loại hình Thơ mới. Khi ấy, các vấn đề

về thi pháp, giọng điệu, kết cấu, trƣờng phái, khuynh hƣớng,… chƣa đƣợc phổ biến

nhƣ là những hệ thống công cụ để các nhà báo, nhà văn, các tay bỉnh bút, diễn thuyết

tận dụng nhằm công kích hay triệt hạ thành lũy của đối phƣơng. Cuộc đối đầu Mới -

Cũ đơn giản chỉ là sự nỗ lực bằng mọi giá để giành lấy cơ hội sinh tồn trong đời sống

văn học của cả hai phe mới cũ. Từ diễn đàn của Hội khuyến học Sài Gòn, Nhà học hội

Quy Nhơn đến mặt báo Phụ nữ Tân văn, Phong hóa, Ngày nay, Văn học tạp chí, Hà

Nội báo, An Nam tạp chí, Tiểu thuyết thứ bảy,… Thơ mới và Thơ cũ đã tranh chiến

với nhau một cách quyết liệt. Ngày ấy, Tản Đà đã ƣớm ngỏ: Nếu không phá cách vứt

luật điệu/ Khó cho thiên hạ đến bao giờ. Nguyễn Văn Vĩnh dịch thơ La Fontaine cũng

8

đã dự báo trƣớc một hình thái thơ mới sẽ xuất hiện. Tuy nhiên, lịch sử sinh thành của

Thơ mới lại gắn với Phan Khôi - Chiến tƣớng tiên phong của Thơ mới với bài thơ Tình

già. “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” đăng trên Phụ nữ tân văn, số 122,

ngày 10 tháng 3 năm 1932, chính thức khai sinh một hình thái thơ mới. Phần lớn giới

nghiên cứu đều thống nhất ngày 10/3/1932 là thời khắc Thơ mới cất tiếng giữa làng

thơ (Gần đây, Lại Nguyên Ân trên Báo Điện tử tổ quốc đã công bố thông tin bài “Một

lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” của Phan Khôi kỳ thực đã đƣợc đăng trên Tập

văn mùa xuân của Báo Đông Tây trƣớc tết năm 1932 - khi ấy, mùng một tết là ngày

6/2/1932 dƣơng lịch, và bài phản hồi lại cũng đăng trên báo ấy ngày 17/2). Trong bài

báo có tính chất tiền phong này, Phan Khôi đã róng riết đặt ra nhu cầu phải cách tân,

phải đổi mới:

Thơ chữ Hán ƣ? Thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô choán trong đầu tôi

rồi. Thơ Nôm ƣ? Thì cụ Tiên Điền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực làm

cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói lại không nói ra đƣợc nữa, thì đọc

đi đọc lại nghe nhƣ họ đã nói rồi. Cái ý nào chƣa nói mình muốn nói ra thì lại bị

những niêm luật bó buộc mà không nói đƣợc [97, tr. 52].

Ông hô hào: “Duy tân đi! Cải lƣơng đi!”, “Hễ câu thúc thì nó mất cái chân đi”, “Đại ý

của lối Thơ mới nầy ra là: đem ý thật có trong tâm khảm tả ra bằng những câu có vần

mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết” [97, tr. 52, 53] (Hiện tại chƣa thấy

giới học thuật có động thái gì về việc cuốn sách Phụ nữ tân văn - Phấn son tô điểm

sơn hà, khảo cứu của Thiện Mộc Lan, có đƣa ra thông tin về việc Phan Khôi thừa nhận

Tình già là một bài viết theo điệu Cổ phong [47, tr. 255]). Theo quan điểm của chúng

tôi, với những lý lẽ đƣa ra để biện thuyết cho “một lối thơ mới” của Phan Khôi chính

là đặt ra những tiêu chí để nhận diện một loại hình Thơ mới. Xem đấy, có thể thấy

Phan Khôi nhấn mạnh vào ý phá bỏ niêm luật, câu thúc, diễn tả một cách thành thật

những trạng thái của tâm khảm. Sau khi Phan Khôi trình chánh lối thơ mới thì Vân

Bằng trên An Nam tạp chí, số 39, ngày 30/4/1932 bày tỏ thái độ “Tôi thất vọng vì Phan

Khôi” tỏ rõ quan điểm đứng về phái Thơ cũ. Ủng hộ sự trình chánh của Phan Khôi,

Lƣu Trọng Lƣ viết một Bức thư ngỏ đăng trên Phụ nữ tân văn, số 153, tháng 6/1932:

“Thi ca ta ngày nay đang lúc ngấp ngoải, không có lấy một chút sinh khí, nếu không

9

xoay phƣơng cứu chữa gấp, thì ôi thôi, còn chi là tánh mạng của thi ca” [97, tr. 57].

Trong bức thƣ này, Lƣu Trọng Lƣ cũng bày tỏ rất rõ cái “dƣ sinh tiêu cực” (M. Mauss)

đang bám víu thi ca đƣơng thời chính là “bọn thi nhân rỗng tuếch kia còn cứ ca đi hát

lại những câu sáo hủ nghìn xƣa” [97, tr. 57]. Thơ mới phản ứng là phản ứng lại với cái

dƣ sinh tiêu cực ấy, cái sáo hủ nghìn xƣa đã không còn chút sinh khí. Sự xuất hiện của

Thơ mới “chính là tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc đang triền miên trong cõi

chết” [97, tr. 58]. Đồng quan điểm ấy, trên Phong Hóa, số 14, ngày 22/9/1932 Văn

Lực tuyên bố: “Bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, nghĩa là tóm tắt, đừng bắt

chƣớc cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tƣởng” [67, tr. 4].

Việt Sinh trên báo Phong Hóa, số 15, 29/9/1932 cũng lên tiếng kêu gọi: “Sầu thảm

nhiều rồi”, “Quốc văn muốn giàu, phải nhiều lối, nhiều lối mới … Lại phải có tƣ tƣởng

mới”[78, tr. 1]. Cũng trên Phong Hóa, số 31, ngày 24.1.1933, Việt Sinh [79] và Nhất

Linh, Giễu các ông làm thơ cũ [51, tr. 19]. Theo hiện tình văn bản, ta thấy rõ không

chỉ các tác giả này giễu Thơ cũ mà, cái chính là giễu lối làm thơ sáo rỗng, máy móc,

lối làm văn vần vè. Chúng tôi rất chú ý đến câu cuối cùng của bài này. Nhất Linh làm

một bài thơ mô phỏng lối thơ mà Phong Hóa phê phán : “Tôi bị mụn ghẻ đầy/ May sao

gặp thuốc hay/ Bôi được một tuần lễ/ Khỏi ngay… Chắc ông Công Luận phục bài thơ

này lắm vì theo ý ông tôi đã tránh đƣợc những tiếng cao nhã (mots nobles) mà dùng

toàn cái giọng thông thƣờng (language vulgaire)” [51, tr. 19]. Nhƣ vậy, sự phê phán

không chỉ là phê phán Thơ cũ mà còn phê phán chính lối làm thơ “bạch thoại” ngớ

ngẩn, vô nghĩa lý nhƣ Nhất Linh, Việt Sinh đã chỉ ra. Thơ cũ có thứ tồn sinh tiêu cực

của nó cần phê phán. Thơ đƣợc gọi là Thơ mới cũng đã xuất hiện thứ dƣ sinh mà các

nhà tân thi sĩ chân chính muốn đánh đổ. Trên Phong Hóa, mục Tin thơ, Lê Ta công

kích Nguyễn Vỹ [86], phê phán tập Mơ màng của Đức Văn, Tình em của Nhuệ Thủy

[86] cũng là một chứng cứ góp thêm vào việc tranh biện rằng Thơ mới còn tranh đấu

với cả thứ Thơ mới sáo rỗng, vô nghĩa.

Nhu cầu cải cách thơ ca đã trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Lƣu Trọng Lƣ trên

Người Sơn Nhân, tháng 5/1933 có bài viết Một cuộc cải cách về thi ca, đăng lại trên

Phụ nữ tân văn số 216, 15.9.1933 với đầu đề Một cái khuynh hướng mới về thi ca:

“một cái khuynh hƣớng mới lạ, mệnh danh là thơ lối mới, muốn cởi trói thi ca ra khỏi

cái niêm luật khắc khổ” [97, tr. 79]. Sự cấp thiết của cuộc canh tân đặt ra từ vấn đề chủ

10

thể sáng tạo - mà ta có thể xem là khởi dựng cho tiểu loại hình tác giả Thơ mới. Lƣu

Trọng Lƣ đã nêu lên nỗi niềm tha thiết của những ngƣời trẻ buổi ấy:

Thanh niên Việt Nam ngày nay đƣơng bơ vơ đi tìm ngƣời thi nhân của

mình, nhƣ ngƣời con đi tìm mẹ…. Ngƣời thanh niên Nam Việt ngày nay chỉ ao

ƣớc có một điều, một điều mà tha thiết hơn trăm nghìn điều khác là đƣợc có một

nhà thi nhân hiểu thấu mình mà yên ủi mình, một bậc thiên tài lỗi lạc đi vào tận

tâm hồn của mình, đến những chỗ cùng sâu, mà vạch những cái kín nhiệm uất

ức… [97, tr. 81].

Với ngƣời thanh niên trẻ tuổi, trẻ lòng, một cá thể sinh thành trong đô thị kiểu phƣơng

Tây với ý thức cá nhân ngày càng mãnh liệt, họ thấy “Còn gì chán bằng bắt ta buồn

mãi cái buồn réo rắt, u uất của ngƣời cung nữ đời Tần ? Còn gì khổ bằng bắt ta sầu

mãi cái sầu dằng dặc, âm thầm của nàng chinh phụ” [97, tr. 81]. An Diễn trên Phụ nữ

tân văn số 207, 6.7.1933 có bài viết Lối thơ mới đã chỉ ra điều kiện của sự sinh tồn

chính là phải có một con đƣờng mới: “nhiều thiếu niên thi sĩ bắt đầu bỏ thiên kiến mà

sấn bƣớc vào con đƣờng mới lạ, đặt tình cảm, tƣ tƣởng vào khuôn mới, khác hẳn phạm

vi Đƣờng thi…. Con đƣờng mới hợp với sự sanh tồn mới” [97, tr. 83].

Sự bàn luận về Thơ mới trong tƣ cách một loại hình đối chọi với loại hình Thơ cũ

còn diễn ra trên diễn đàn luận thuyết thời bấy giờ. Tiêu biểu cho hoạt động này là các

buổi diễn thuyết của Nguyễn Thị Manh Manh với chiến tƣớng phe Thơ cũ là Nguyễn

Văn Hanh. Cô Kiêm đã quả quyết tại Hội khuyến học Sài Gòn ngày 26 Juillet 1933 :

“Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà bị “đẹt” mất thì rất cần phải có một lối thơ

khác, do lề lối nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác hơn lối xƣa nên gọi là thơ mới”

[97, tr. 100]. Nguyễn Thị Kiêm đã chỉ ra lối biểu đạt tự do trong thơ Baudelaire và

Verlaine, nhƣng là lối văn rất riêng, nên nếu dịch sang lục bát, song thất đều không đạt

đƣợc nhƣ phong thái thơ ca của các tác giả. Vậy phải dịch một cách tự do hơn mà phá

bỏ các luật lệ thơ ta đã có. Dịch thơ Tây bằng thứ văn mới, phóng khoáng và dồi dào

mới có thể nói đƣợc tinh thần của thứ thơ ấy. Là một cây bút xông xáo của Phụ nữ tân

văn, sau những hoạt động đăng đàn diễn thuyết bênh vực Thơ mới của Nguyễn Thị

Manh Manh, tờ báo có tƣ tƣởng canh tân này đã lên tiếng khẳng định: “tình tứ mới cần

11

diễn ra trong khuôn khổ mới”, “lối thơ mới đã chiếm đƣợc quyền sống còn trong văn

học An Nam” [97, tr. 94].

Rất đáng chú ý trong việc khẳng định tƣ cách loại hình Thơ mới ở giai đoạn này

là ý kiến của Phan Văn Hùm. Trong bài Thảo luận về thi : nguồn thi cảm mới, Phụ nữ

tân văn, số 240, 3.5.1934, Phan Văn Hùm đã có ý tƣởng rất đúng khi thâm nhập vào

cơ chế sáng tạo của thi sĩ, để tìm ra cái mới, cái khả năng thuyết phục của một loại

hình thơ mới đó là: “Tôi chỉ muốn đứng về phƣơng diện nghệ thuật (art), không, tôi

còn muốn thâu hẹp ranh rắp hơn nữa, tôi chỉ muốn đứng về phƣơng diện kỹ thuật

(Point de vue la technique) muốn vào trong công trƣờng (atelier) vào trong trung điện

mật nhiệm của nhà nghề, để xem cái tay thơ đƣơng kiến trúc” [97, tr. 149]. Cũng với ý

tƣởng thâm nhập vào “trung điện mật nhiệm của nhà nghề” của thi sĩ, Nhất Linh đã

bàn đến Sự cân nhắc chữ trong Thơ cũ và Thơ mới. Trên Phong Hóa, số 69, ngày

20/10/1933, ông cho rằng:

Nhà thơ cũ cân nhắc từng chữ, cốt ý để câu văn đƣợc chỉnh, đọc lên nghe

cho kêu, có những chữ đối chọi nhau một cách thần tình, khéo léo. Nhà thơ mới

cân nhắc từng chữ để đo đắn xem chữ nào diễn đƣợc cái cảm của mình, tả đƣợc

cái ý của mình đúng hơn hết, xem phải cần đến chữ nào, câu thơ mới có cái điệu

khả dĩ diễn đƣợc sự rung động của linh hồn mình một cách rõ rệt hơn… Một bên

chỉ cốt cân nhắc để tìm những chữ nào đối chọi nhau, cho ý là phụ, một bên cố

cân nhắc để tìm những chữ nào hợp điệu thơ, diễn đúng ý [52, tr. 2].

Sự phòng vệ và phản kháng của Thơ cũ nhằm mục tiêu giữ vững hình thái thơ truyền

thống trung đại. Chính trong luận thuyết của các nhà thơ cũ, chúng ta cũng nhận thấy

có sự khác biệt để hai loại hình Thơ cũ, Thơ mới không thể dung hòa nhau lúc này.

Trên mặt trận diễn thuyết đã có tƣớng tiên phong Nguyễn Văn Hanh tranh đấu cho

Thơ cũ. Trên báo chƣơng, có lẽ Chất Hằng Dƣơng Tự Quán là một trong những tên

tuổi bênh vực Thơ cũ một cách mạnh mẽ. Trên Văn học tạp chí, số 18, 1.6.1933, Chất

Hằng Dƣơng Tự Quán chê thơ Phan Khôi nhạt nhẽo, vô duyên, khắc khổ, hùng hổ.

Phan Khôi là ngƣời ít tình cảm nên không thể làm thơ đƣợc [97, tr. 82]. Mặc dù ý thức

đƣợc rằng: “công cuộc giải phóng cho thơ không phải là chẳng hợp lý và chẳng thích

thời”, nhƣng ông bày tỏ quan điểm:

12

Tôi thích đổi mới cho thơ nhƣng tôi chú trọng về tinh thần của thơ hơn là

đƣờng hình thức. Về đƣờng hình thức tôi dám nói rằng những nhà thơ của Trung

Quốc đáng là thầy ta. Lối thơ Đƣờng luật tuy giam hãm vào cái thi pháp chặt chẽ

nhƣng ta thử hỏi có lối thơ nào mà chẳng phải bó buộc bởi những luật lệ nhất

định. Ngay nhƣ thơ Tây cũng còn phải theo phép tắc rất phiền phức. Vì nếu

không thế không phải là thơ nữa [97, tr. 88].

Dƣơng Tự Quán cho rằng Cổ phong cũng rất tự do, có thể đáp ứng đƣợc mọi nhu cầu

biểu hiện của con ngƣời, “việc gì phải lập dị”. Từ đó ông quả quyết tinh thần hƣớng

dẫn nhà thơ hiện đại phải là “dùng lối cổ mà diễn đạt những tƣ tƣởng mới” [97, tr. 88].

Chất Hằng Dƣơng Tự Quán thực ra cũng rất suy nghĩ đến vấn đề đổi mới thơ, nhƣng

có lẽ, những bằng chứng của Thơ mới đến thời điểm ấy chƣa thuyết phục đƣợc ông

(Làm thế nào để đối mới cho thơ, Văn học tạp chí, số 23, ngày 15.8.1933) [97, tr. 110].

Cũng với quan điểm bênh vực Thơ cũ và hoài nghi, cảnh giác với Thơ mới,

Thƣơng Sơn trong bài Thơ mới tức là Từ khúc, đăng trên Văn học tạp chí, số 24, ngày

1.9.1933, sau khi dẫn một số bài Từ dịch trên Tản Đà thư điếm, tác giả cho rằng: “Vậy

thì cách vần ở bài Tình già cũ lắm lắm chứ có cũ vừa đâu” [97, tr. 112]. Thƣơng Sơn

dẫn thêm một số bài Từ khúc khác và kết luận, lối Thơ mới thực chẳng có gì mới, nó

chính là Từ khúc đã có từ rất lâu. Chúng tôi không tán thành quan điểm này của

Thƣơng Sơn. Bởi lẽ, cách bắt vần có thể là Từ khúc, thậm chí lối thơ vẫn là Đƣờng

luật,… nhƣng Thơ mới vẫn là Thơ mới, Từ khúc vẫn là Từ khúc. Cái mới ở chính chất

thơ của hai loại ấy. Chất thơ của Thơ mới đã khác hẳn chất thơ của các bài Từ mà

Thƣơng Sơn chỉ ra.

Đặt ra trực tiếp vấn đề Thơ mới với Thơ cũ, trên báo Nam phong, số 193, Février

– Mars, 1934, Nguyễn Hữu Tiến cho rằng, lối Thơ mới là một sự lố lăng của hình thức.

Hình thức theo lối Tây, nhƣng ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ Tây khác nhau về âm điệu,

thanh điệu lại cả về loại hình (đa âm và đơn âm), nên vần điệu thật khó mà bắt chƣớc

giống thơ Tây đƣợc. Chính vì thế nên Thơ mới lố lăng nhƣ cô gái mới mà óc thì vẫn

cũ rích. Nguyễn Hữu Tiến còn cho rằng, Thơ mới khó thuộc, khó nhớ, do chỗ vần điệu

lổn nhổn, mới hai câu đã đổi vần, không có khuôn mẫu đại khái nào để ngƣời đọc hình

dung và nhớ đƣợc, nên khó thuộc. Đã khó thuộc thì không thể ca ngâm, hát xƣớng,

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!