Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay
PREMIUM
Số trang
165
Kích thước
1.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1072

Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ THU HUYỀN

TH¥ D¢N TéC TµY Tõ 1945 §ÕN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2013

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng muốn phát triển được, muốn

vươn tới những đỉnh cao mới thì luôn cần sự đổi mới tư duy, cách viết. Cuộc sống

bề bộn, phức tạp đã thổi một luồng gió mới, giải phóng mọi năng lực sáng tạo trong

xã hội, trong đó có thơ ca. Ngay từ khi mới ra đời, thơ dân tộc thiểu số nói riêng và

văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung đã là một bộ phận

không thể tách rời của nền văn học nghệ thuật Việt Nam, góp phần làm nên một

tiếng nói độc đáo, giàu bản sắc. Với những tác phẩm của mình, các thế hệ nhà thơ

dân tộc thiểu số đã tạo thành một gương mặt chung, một phong cách chung thống

nhất trong đa dạng. Theo thời gian, thơ dân tộc thiểu số ngày một sung sức, phát

triển cả về lực lượng sáng tác, số lượng tác phẩm và chất lượng cũng có những thay

đổi đáng kể.

Nhìn lại quá trình vận động và phát triển của đội ngũ văn nghệ sĩ các dân tộc

thiểu số, có thể thấy rằng, sự xuất hiện của mỗi thế hệ cầm bút, mỗi tác giả đều gắn

với những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử xã hội cụ thể nhất định, trong đó không

thể phủ nhận vai trò góp sức của rất nhiều yếu tố khác trong xã hội. Trong diễn biến

phức tạp tưởng như khó nắm bắt được của các sự kiện văn học, tiến trình văn học

dân tộc Tày vẫn diễn ra theo một trình tự, một quy luật nhất định mà các giai đoạn

văn học cụ thể chỉ là sự tiếp nối lẫn nhau một cách logic. Nhìn vào chặng đường

phát triển với bốn thế hệ tiếp nối nhau, có thể thấy đội ngũ các nhà thơ dân tộc Tày

vẫn chiếm số lượng đông đảo nhất và cũng là dân tộc có nhiều thành tựu nhất so với

các dân tộc thiểu số khác. Một tín hiệu đáng mừng là dân tộc Tày cũng là dân tộc có

được đội ngũ kế cận tương đối nhiều và đồng đều để tiếp bước thế hệ trước.

Thế hệ đầu tiên của thơ dân tộc Tày có thể kể đến Nông Quốc Chấn, Nông

Minh Châu, Nông Viết Toại, Triều Ân… hầu hết là những trí thức sống gắn bó với

quê hương, dân tộc mình, giác ngộ cách mạng đi kháng chiến, gặp gỡ, học hỏi và

được các văn nghệ sĩ người Kinh giúp đỡ trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Họ là

3

lớp đầu tiên, đặt nền móng cho văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Thế hệ

thứ hai xuất hiện trong thời kỳ xây dựng hòa bình và trong kháng chiến chống Mỹ.

Họ sống, lao động, chiến đấu gắn bó với thực tế và rất nhiều trong số đó được học

tập, được đào tạo, bồi dưỡng trở thành văn nghệ sĩ chuyên nghiệp như: Ma Đình

Thu, Triệu Lam Châu, Y Phương, Mai Liễu, Ma Trường Nguyên, Triệu Sinh, Ma

Phương Tân, Lương Định, Nông Thị Ngọc Hòa, Đoàn Ngọc Minh, Hữu Tiến,

Dương Thuấn... rồi lớp nhà thơ tuy tuổi đời còn trẻ nhưng đã có những thành công

nhất định: Tạ Thu Huyền, Dương Khâu Luông, Bế Phương Mai, Nông Thị Tô

Hường, Đinh Thị Mai Lan, Vi Thùy Linh, Hoàng Chiến Thắng, Phạm Văn Vũ...

Hiện nay dân tộc Tày có một đội ngũ nhà thơ đông đảo với những sáng tác chất

lượng, có những đóng góp tích cực đáng kể cho văn học nghệ thuật nước nhà.

1.2. Thực trạng nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số nói chung, thơ dân tộc

thiểu số nói riêng hiện nay còn nhiều hạn chế. Văn học các dân tộc thiểu số rất cần

được sự tham gia, đánh giá, ủng hộ, khuyến khích của các nhà phê bình văn học,

thông qua những công việc như: giới thiệu, phê bình trên tinh thần thẳng thắn, đoàn

kết, dân chủ, bình đẳng; phát hiện và bồi dưỡng những tài năng mới… Cần phải đẩy

mạnh nghiên cứu theo hướng có những đánh giá, khái quát về thơ, văn các dân tộc

thiểu số bên cạnh những bài viết giới thiệu phê bình từng tác phẩm, tác giả riêng lẻ.

Cũng như thơ dân tộc thiểu số nói chung, thơ dân tộc Tày nói riêng ít được

nghiên cứu. Các công trình đã có phần nhiều dành cho việc khái quát, tổng kết theo giai

đoạn hoặc từng dân tộc nhưng còn thiếu sự chuyên sâu. Bên cạnh đó là những công

trình phác thảo diện mạo theo hướng tập trung những gương mặt tiêu biểu... Bởi vậy,

riêng về thơ dân tộc Tày chưa có công trình nào riêng biệt. Diện mạo của nền thơ ca

Việt Nam hiện đại chỉ có thể được nhìn nhận một cách trọn vẹn thống nhất khi có sự

đánh giá đúng vai trò của thơ ca các dân tộc thiểu số. Bởi vậy, việc nghiên cứu một

cách hệ thống, toàn diện về thơ ca các dân tộc thiểu số, trong đó không thể thiếu thơ

dân tộc Tày là một công việc có ý nghĩa thiết thực. Xuất phát từ những lí do đó, chúng

tôi lựa chọn Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay làm đề tài nghiên cứu cho luận án.

2. Mục tiêu nghiên cứu

4

Văn học các dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng, độc đáo của văn học

Việt Nam. Bởi vậy, muốn tìm hiểu những đặc điểm của thơ ca Việt Nam hiện đại,

không thể không nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm của bộ phận thơ ca các dân tộc

thiểu số, trong đó có thơ ca dân tộc Tày. Việc tìm hiểu, nghiên cứu những đặc điểm

của thơ ca dân tộc Tày từ năm 1945 đến nay góp phần tìm hiểu, soi sáng một bộ

phận quan trọng trong bức tranh văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, từ đó có cái

nhìn tương đối đầy đủ, toàn diện về những đặc điểm nổi bật, độc đáo của thơ ca dân

tộc Tày trên các bình diện đội ngũ, nội dung và hình thức nghệ thuật, những phong

cách sáng tạo độc đáo.

Luận án phác hoạ lại diện mạo thơ của dân tộc Tày từ 1945 đến nay nhưng đặc

biệt nhấn mạnh vào sự ảnh hưởng của văn hóa vùng đến những sáng tác. Trong mỗi

phần giải quyết những luận điểm cụ thể, chúng tôi phân tích theo hướng đối chiếu,

so sánh để nhận rõ hơn những điểm tương đồng và nhất là những khác biệt của thơ

dân tộc Tày so với sự phát triển chung của thơ dân tộc Kinh cũng như so với sự thay

đổi của thơ ca các dân tộc thiểu số khác như Thái, H’mông, Dao, Mường... Cũng

cần phải nhấn mạnh rằng, văn hóa, văn học dân tộc Tày có sự ảnh hưởng nhất định

tới sự phát triển của văn học nhiều dân tộc thiểu số khác trong vùng Việt Bắc cũng

như văn học Kinh kế cận miền xuôi.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận án lấy mốc bắt đầu từ năm 1945 để khảo sát. Đây là thời điểm mà nhiều

nhà nghiên cứu văn học đã lựa chọn và thừa nhận sự biến chuyển lớn của văn học

Việt Nam hiện đại nói chung và văn học dân tộc thiểu số/ dân tộc Tày cũng không

ngoại lệ. Tuy có những cách phân kỳ khác nhau, nhưng đối với văn học hiện đại Việt

Nam thì các nhà nghiên cứu đều thống nhất lựa chọn mốc 1945, không chỉ bởi đó là

một mốc lịch sử quan trọng mà còn vì “văn học trước và sau Cách mạng tháng Tám có

nhiều điều khác nhau rõ rệt. Đó là sự khác nhau từ hình thái xã hội, từ phạm trù văn

hóa, từ ý thức hệ của thời đại, dẫn đến sự khác nhau về quan điểm nghệ thuật, về cảm

hứng chủ đạo trong văn học, về đề tài, về thế giới nhân vật trong văn học...” [21, tr.12].

Văn học dân tộc thiểu số nói chung và văn học hiện đại dân tộc Tày nói riêng

có sự phát triển đi sau so với bề dày thành tựu và thời gian hình thành của văn học

5

miền xuôi. Theo nhà phê bình Lâm Tiến thì “văn học viết các dân tộc thiểu số Việt

Nam mới chỉ hình thành và phát triển vào thế kỷ XX” [92, tr.138]. Giai đoạn trước

nữa, từ thế kỷ XVII, dân tộc Tày có Bế Văn Phủng và Nông Quỳnh Văn là hai tác

giả nổi tiếng, dân tộc Thái cũng có Ngần Văn Hoan (thế kỷ XIX) với một số sáng

tác được đồng bào các dân tộc yêu mến... Tuy nhiên, sự xuất hiện đó còn ở dạng “lẻ

tẻ, không có sự chắp nối, chất lượng tác phẩm còn mang đậm dấu vết của văn học

dân gian”, chưa đủ điều kiện hình thành một nền văn học các dân tộc thiểu số bên

cạnh nền văn học của người Kinh. Quan điểm này cũng nhận được sự đồng tình của

tác giả Nông Quốc Bình trong bài viết Nhìn lại văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu

số và tác giả Đỗ Kim Cuông trong bài Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt

Nam trong qúa trình đổi mới đều khẳng định văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu

số Việt Nam hiện đại ra đời cùng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. GS. Phan

Đăng Nhật cũng lấy năm 1945 để làm mốc phân chia giữa văn học dân gian và văn

học hiện đại các dân tộc thiểu số Việt Nam [59]. Có thể khẳng định rằng, dù mầm

mống của văn học hiện đại các dân tộc thiểu số đã có từ trước nhưng nó chỉ thực sự

ra đời cùng với Cách mạng tháng Tám 1945. Như vậy, việc lấy năm 1945 là mốc để

khảo sát nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (trong đó không ngoại

trừ thơ hiện đại dân tộc Tày) là quan niệm chung nhất, phổ biến nhất của các nhà

nghiên cứu hiện nay.

Luận án lựa chọn nghiên cứu thơ Tày từ 1945 cho đến nay - tức là tại thời

điểm hiện tại, cả những tác phẩm xuất hiện năm 2012 vẫn trong diện khảo sát của

chúng tôi. Luận án sẽ tập trung nghiên cứu các tác phẩm thơ của các tác giả dân tộc

Tày từ năm 1945 đến nay; bên cạnh đó là một số tác phẩm thơ dân tộc Tày trước

năm 1945, kho tàng thơ ca dân gian Tày; tác phẩm thơ của các dân tộc thiểu số khác

như Thái, H’mông, Dao, Mường... và những tác phẩm thơ của dân tộc Kinh cùng

giai đoạn để có cái nhìn hệ thống; các công trình, bài nghiên cứu về thơ ca dân tộc

Tày nói riêng và các công trình nghiên cứu về thơ/ văn dân tộc thiểu số nói chung;

một số tài liệu về lý luận, lý thuyết có liên quan đến đề tài.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

6

Trong luận án này, cách thức tiến hành của chúng tôi không đi vào phân tích

từng tác giả, tác phẩm cụ thể để nhận diện đặc điểm thơ của chung dân tộc Tày. Luận

án chủ yếu tiếp cận vấn đề bằng việc sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu

vừa truyền thống vừa hiện đại để từ đó lý giải, xác lập luận điểm, luận cứ và rút ra

những kết luận cần thiết:

Phƣơng pháp văn học sử: Đề tài luận án nhằm khái quát một giai đoạn phát

triển thơ dân tộc Tày vì vậy đây là phương pháp không thể thiếu trong việc khôi

phục diện mạo thơ dân tộc Tày trong hơn nửa thế kỷ, tìm ra những đặc điểm của

từng thời kì phát triển, những phong cách sáng tạo độc đáo...

Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp: Từ việc phân tích những dẫn chứng cụ

thể sẽ giúp tổng hợp và khái quát những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật

của thơ ca dân tộc Tày từ 1945 đến nay.

Một số thao tác bổ trợ: đối chiếu, so sánh, thống kê... Nghiên cứu thơ dân tộc Tày

từ 1945 đến nay trong bối cảnh văn hóa, trong sự liên thông và tác động của văn hóa

với văn học. Phương pháp này cũng được vận dụng nhằm tìm hiểu sự ảnh hưởng, tiếp

thu có chọn lọc của các nhà thơ dân tộc Tày hiện đại với các tác phẩm của nền văn học

dân gian, giữa các sáng tác của dân tộc Tày với các nhà thơ dân tộc khác..., từ đó đi đến

khẳng định những đặc điểm nổi bật của thơ văn dân tộc Tày từ 1945 đến nay.

Ngoài ra để triển khai các luận điểm, lý giải một số vấn đề, chúng tôi còn sử

dụng một số phương pháp của các khoa học liên ngành, chúng tôi sẽ dành sự chú ý

đặc biệt cho xu hướng nghiên cứu tâm lý học tộc người về các nền văn hóa, lý

thuyết văn hóa của L.A. White, E. Fromm, nhân học văn hóa của M. Herskovits, A.

Kroeber... để từ đó nhìn ra những ảnh hưởng của môi trường, văn hóa tới sáng tác

của các tác giả dân tộc Tày trong hơn nửa thế kỷ phát triển.

5. Đóng góp mới của luận án

5.1. Đây là công trình nghiên cứu có quy mô và hệ thống về thơ dân tộc Tày

trong hơn nửa thế kỷ trên các bình diện như: đội ngũ nhà thơ dân tộc Tày từ 1945

đến nay; sự thay đổi cảm hứng trong hai giai đoạn phát triển; những đặc điểm nổi

bật trong nghệ thuật thể hiện và một số phong cách sáng tạo của thơ dân tộc Tày

qua hơn nửa thế kỷ phát triển.

7

Ba phong cách (Nông Quốc Chấn, Y Phương, Dương Thuấn) mà luận án lựa

chọn làm đối tượng khảo sát là những tác giả thuộc về ba thế hệ kế tiếp nhau. Đặc

biệt là sau thời kỳ đổi mới 1986 đến nay (trừ Nông Quốc Chấn mất năm 2002), họ

vẫn tiếp tục sáng tác, tác phẩm của họ đã và đang khẳng định được vị thế quan

trọng trong nền văn học dân tộc thiểu số cũng như trên thi đàn văn học.

5.2. Luận án là công trình khảo sát về những thành tựu của thơ dân tộc Tày từ

1945 đến nay, chúng tôi đặt những phân tích, kết luận rút ra từ góc nhìn văn hóa.

Kết quả nghiên cứu của luận án đem lại một cái nhìn khái quát, đầy đủ về thơ dân

tộc Tày - một dân tộc thiểu số không chỉ đông về số dân, giàu bản sắc mà còn sung

sức về lực lượng sáng tác thơ văn, từ đó thấy được những tìm tòi, đổi mới, vận động

và phát triển của thơ dân tộc Tày nói riêng và thơ ca dân tộc thiểu số nói chung. Khi

nghiên cứu những tác phẩm thơ dân tộc Tày không chỉ dưới góc độ nghiên cứu văn

học mà còn từ góc độ văn hóa học, chúng tôi chỉ rõ những kế thừa từ mạch nguồn

văn hóa dân gian, sự cách tân ở từng tác giả, tác phẩm và những dấu vết của sự sáng

tạo để đổi mới ngôn ngữ, thể loại...; khảo sát hệ thống biểu tượng để thấy được sức

sống bền bỉ của văn hóa dân tộc Tày lưu truyền đến thời kỳ hiện đại.

6. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án

được sắp xếp thành bốn chương:

Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Chương 2: Hiện thực đời sống trong thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay

Chương 3: Các phƣơng diện nghệ thuật cơ bản của thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay

Chương 4: Một số phong cách sáng tạo trong thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay.

8

Chƣơng 1:

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay

1.1.1. Tình hình nghiên cứu thơ dân tộc thiểu số từ 1945 đến nay

Xuất hiện muộn hơn so với thơ ca dân tộc Kinh, thơ ca các dân tộc thiểu số

Việt Nam hiện đại đã có một quá trình phát triển liên tục, mạnh mẽ và đạt được

nhiều thành tựu. Tuy thời gian hình thành và phát triển chưa dài nhưng văn học các

dân tộc thiểu số đã thực sự hòa mình trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam

hiện đại. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam là một trong những

trung tâm tập hợp đội ngũ sáng tác, nghiên cứu, phê bình, triển khai nghiên cứu một

cách hệ thống và cập nhật thường xuyên tình hình sáng tác cũng như những đổi mới

của nền văn học dân tộc thiểu số. Tuy nhiên những công trình được thực hiện

thường thiên về tính chất tuyển chọn, bình, điểm những gương mặt tiêu biểu của

văn học miền núi qua những nét sơ lược về tiểu sử, các tác phẩm chính hoặc những

bài thơ hay. Hội cũng có một số công trình viết dành riêng cho văn học miền núi và

đã có những Hội thảo về văn học dân tộc thiểu số và miền núi có chất lượng, song

những nhận định, đánh giá thường là về thế hệ thứ nhất và thứ hai (và cũng chưa

hẳn là đầy đủ), thực sự còn rất ít về thế hệ tác giả đương đại.

Trong nền văn học Việt Nam đa dân tộc, vấn đề nghiên cứu văn học dân tộc

thiểu số nói chung, thơ dân tộc thiểu số nói riêng từ sau Cách mạng tháng Tám đã

có những bước phát triển đáng chú ý. Trong đó không thể không kể đến sự góp sức

của các nhà nghiên cứu phê bình người Kinh. Các tác giả viết về văn học dân tộc

thiểu số có thể kể đến Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Tế Hanh, Trúc Thông, Trinh Đường,

Vũ Quần Phương, Trần Mạnh Hảo, Lưu Khánh Thơ, Vũ Tuấn Anh, Tôn Phương

Lan, Phạm Xuân Nguyên, Phan Diễm Phương, Phạm Quang Trung, Trần Lê Văn,

Nguyễn Thị Chính, Nguyễn Văn Toại, Nguyễn Ngọc Phúc, Phạm Phú Phong... sau

này là Trần Thị Việt Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Nguyễn Trọng Hoàn, Phạm Duy

Nghĩa... Bên cạnh đó, những tác giả là người dân tộc thiểu số vừa sáng tác vừa phê

bình dành những chú ý đặc biệt cho văn học dân tộc mình và những dân tộc thiểu số

anh em: Nông Quốc Chấn, Lò Ngân Sủn, Mai Liễu, Dương Thuấn, Inrasara, Hoàng

9

Quảng Uyên, Triều Ân, Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Hà Thu Bình... đặc biệt có

Lâm Tiến (dân tộc Nùng). Cho đến nay, các tác giả tập trung nghiên cứu văn học

hiện đại dân tộc thiểu số đều thống nhất khẳng định sự sung sức và ngày một phát

triển của nền văn học còn nhiều bỏ ngỏ này. Có thể kể đến một số công trình như:

Văn học các dân tộc - từ một diễn đàn (1999) của Hội Văn học Nghệ thuật các dân

tộc thiểu số Việt Nam; Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (Nxb. Văn

hóa dân tộc, H, 1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (Nxb. Văn hóa dân

tộc, H, 1997), Về một mảng văn học dân tộc (Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 1999), Văn

học và miền núi (Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 2002) của Lâm Tiến, Hoa văn thổ cẩm

(Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 1999), Thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số (Nxb. Văn

hóa dân tộc, H, 2001), Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số (Nxb. Văn

hóa dân tộc, H, 2002) của Lò Ngân Sủn, Nhà văn các dân tộc thiểu số - Đời và văn

(Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 2003) của Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số

Việt Nam, Văn hóa các dân tộc thiểu số - Từ một góc nhìn (Nxb. Văn hóa dân tộc,

H, 2004) của Vi Hồng Nhân...

Về vấn đề đội ngũ: Đội ngũ những người sáng tác thơ dân tộc thiểu số ngày

càng gia tăng về số lượng, có mặt trên nhiều vùng miền dân tộc và được bổ sung từ

nhiều nguồn khác nhau. Bàn đến vấn đề đội ngũ người dân tộc có thể kể đến những

bài viết của Hoàng Tuấn Cư với Văn học dân tộc thiểu số và vấn đề đội ngũ tác giả

ngƣời dân tộc, Chẩm Hương Việt với Chƣơng trình trọng tâm đối với văn học nghệ

thuật các dân tộc thiểu số, Dương Thuấn với Cần nâng cao chất lƣợng văn học viết

về dân tộc và miền núi, K.Đích với Phát triển đội ngũ sáng tác là ngƣời dân tộc

thiểu số ở Nam Tây Nguyên... [68]. Sau năm 1986, đất nước bước vào một thời kỳ

mới. Sáng tác văn học nghệ thuật của các dân tộc thiểu số cũng vì thế được quan

tâm và tạo điều kiện hơn. Lúc này, nghiên cứu phê bình về văn học dân tộc thiểu số

bắt đầu có những đầu tư thích đáng hơn. Công trình đầu tiên của giai đoạn sau 1986

có thể kể đến 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945-1985

(Nxb. Văn hóa, H, 1985), Phong Lê và Đinh Văn Định viết về thành tựu 40 năm của

văn học dân tộc thiểu số. Từ giai đoạn này trở đi, nhiều nhà nghiên cứu đã chú tâm

đến văn học dân tộc thiểu số hơn.

10

Dù đã dành được sự đầu tư nhất định nhưng do nhiều yếu tố khách quan và chủ

quan nên việc nghiên cứu thơ dân tộc thiểu số vẫn còn trong tình trạng sơ lược. Nhiều

công trình thiên về khái quát văn học dân tộc thiểu số, đưa ra những đặc điểm chung,

phác họa diện mạo và chỉ ra những điểm thành công và cả những hạn chế về nội

dung, nghệ thuật: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng

Tám năm 1945 (Phan Đăng Nhật, Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 1981); Văn học các dân

tộc thiểu số - từ một diễn đàn, (Nhiều tác giả, Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 1999); Văn

học nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kỳ đổi mới (Nhiều tác giả, Nxb. Văn hóa dân

tộc, H, 2007). Trong các công trình đã xuất bản từ sau 1986 đến nay, Văn học các

dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 1995) của nhà nghiên

cứu, phê bình văn học Lâm Tiến có thể coi là một công trình nghiên cứu qui mô nhất

về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại từ trước Cách mạng tháng Tám

năm 1945 trên cả ba lĩnh vực: thơ, văn xuôi và kịch. Tuy nhiên, công trình này mới

chỉ nghiên cứu đánh giá về một số tác giả tác phẩm tiêu biểu của các dân tộc thiểu số

xét trên từng giai đoạn lịch sử, chứ chưa phác thảo về diện mạo cũng như chưa đi sâu

nghiên cứu về đặc điểm văn học nói chung và thơ ca nói riêng của từng dân tộc. Năm

2010, 2011, hai công trình của các tác giả thuộc trường Đại học Thái Nguyên cung

cấp những tư liệu phong phú: Bản sắc dân tộc trong thơ ca các dân tộc thiểu số Việt

Nam hiện đại - Khu vực phía Bắc Việt Nam (Trần Thị Việt Trung, Lâm Tiến, Nguyễn

Thúy Quỳnh, Nxb. Đại học Thái Nguyên, 2010) giới thiệu bản sắc dân tộc trong văn

học nghệ thuật các dân tộc thiểu số, quá trình vận động và phát triển của thơ ca các

dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, giới thiệu thơ ca thời kỳ hiện đại của một số dân

tộc như dân tộc Tày, Thái, H’mông, Dao; Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ

hiện đại - một số đặc điểm (Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo đồng chủ biên, Nxb.

Đại học Thái Nguyên, 2011) tổng kết những đặc điểm cơ bản của thơ ca dân tộc thiểu

số hiện đại Việt Nam như các chặng đường phát triển, đặc điểm nội dung và nghệ

thuật. Có thể thấy sự thành công trong các công trình nghiên cứu phê bình văn học

này là việc các tác giả đã chỉ ra được một số đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ

thuật của văn học các dân tộc thiểu số; đồng thời khẳng định một số nét đặc trưng

mang đậm bản sắc dân tộc và miền núi của từng thể loại trong quá trình vận động và

phát triển.

11

Thống nhất với quan điểm của nhà thơ Lò Ngân Sủn khi cho rằng: “Cái còn lại

với đời, với thời gian không phải là đã viết được bao nhiêu bài, viết trong bao nhiêu

thời gian, mà là các bài thơ, câu thơ, chữ thơ đã gieo vào được lòng người, được người

đời lưu nhớ” [77, tr.19], nhiều công trình thiên về nhận diện những gƣơng mặt tiêu

biểu của thơ dân tộc thiểu số, những lời bình chỉ ra cái hay cái dở của những tác

phẩm cụ thể. Hướng triển khai của nhiều công trình về thơ dân tộc thiểu số sau

Cách mạng tháng Tám xem ra là cách thức tối ưu nhất khi sự nghiên cứu về từng

dân tộc, khu vực chưa dành được sự đầu tư thích đáng để tiến tới một công trình hệ

thống, kĩ lưỡng về diện mạo đầy đủ của văn/ thơ dân tộc thiểu số. Ở hướng tiếp cận

này có nhiều công trình đã thực hiện tương đối tốt và đưa ra những nhận định xác

đáng: Hoa văn thổ cẩm (3 tập, Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 1998, 1999, 2002) của Lò

Ngân Sủn tập hợp những bài viết, phê bình, giới thiệu về những gương mặt tiêu

biểu của thơ dân tộc thiểu số, một số bài tiểu luận về vấn đề bản sắc dân tộc trong

thơ dân tộc thiểu số, suy ngẫm về đội ngũ làm thơ viết văn là người dân tộc thiểu số

và một số khó khăn của sáng tác bằng tiếng dân tộc. Tuy nhiên, có thể thấy tham

vọng đặt ra là phác họa lại một diễn trình phát triển hơn nửa thế kỷ của văn học hiện

đại các dân tộc thiểu số nhưng nhiều công trình rơi vào tình trạng “điểm mặt chỉ

tên”, có sự phong phú và đầy đủ những tên tuổi tiêu biểu nhưng không có được sự

đánh giá trong một chỉnh thể. Tuyển tập Văn học dân tộc miền núi (Nông Quốc

Chấn chủ biên, Nxb. Giáo dục, H, 1998) cũng vẫn theo lối cũ, tức là sự tập hợp theo

phong trào: 3 tập đầu giới thiệu những gương mặt thơ tiêu biểu của thơ ca dân tộc

thiểu số. Trong đó có cung cấp cho bạn đọc tiểu sử sơ lược, những bài thơ hay và

phần lời bình ngắn gọn… về các tác phẩm được tuyển chọn. Hợp tuyển thơ văn các

tác giả dân tộc thiểu số Việt Nam 1954-1980 (Nxb. Văn hóa, H, 1980) tập hợp

những tác phẩm tiêu biểu của 44 nhà thơ và 11 nhà văn cùng 5 tác giả về kịch - sân

khấu; trong đó có ba bài phê bình tiểu luận của Nông Quốc Chấn, Vi Hồng, Nông

Phúc Tước về văn học dân tộc thiểu số nói chung. Ngoài ra còn có thể kể đến Văn

học các dân tộc thiểu số - Tác phẩm và đội ngũ (1983)...

Có thể khẳng định từ tuyển tập Văn học dân tộc thiểu số do nhà xuất bản Văn

học ấn hành năm 1960, đến Hợp tuyển thơ văn các tác giả dân tộc thiểu số Việt

Nam 1954-1980 do Nhà xuất bản Văn hóa in năm 1980, với những bài thơ, truyện,

12

ký, kịch nói, tiểu luận, phê bình... được chọn, tên tuổi của một số tác giả được giới

thiệu rộng rãi và tập trung với bạn đọc trong cả nước. Ở đây, vai trò của các nhà

nghiên cứu được quan tâm một cách đúng mực trong việc góp ý và định hướng.

Làm tốt khía cạnh này có thể kể đến công trình do GS. Phong Lê chủ biên Nhà văn

các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 1988) với việc

công bố 16 bài viết công phu, có hàm lượng khoa học cao về 16 nhà thơ, nhà văn

dân tộc thiểu số. Công trình công phu và đầy đủ nhất tính đến thời điểm hiện tại là

hai tập Nhà văn dân tộc thiểu số đời và văn của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc

thiểu số Việt Nam với việc giới thiệu 87 tác giả văn thơ trên tất cả các vùng miền

của văn học dân tộc thiểu số thời kỳ hiện đại.

Trong tình hình nghiên cứu còn nhiều hạn chế trên nhiều phương diện, đa

phần các công trình nêu trên đều kết hợp giữa việc giới thiệu những gƣơng mặt

tiêu biểu đồng thời bàn đến một số vấn đề của văn học dân tộc thiểu số như

tiếng nói và chữ viết, truyền thống và hiện đại, bản sắc dân tộc... Trước 1986 chỉ có

Nông Quốc Chấn viết nhiều và được biết đến nhiều trong cả công việc sáng tác lẫn

nghiên cứu, phê bình, tập trung nhất là ba công trình phê bình tiểu luận: Đƣờng ta

đi (1970), Một vƣờn hoa nhiều hƣơng sắc (1977), Chặng đƣờng mới (1985). Trong

các công trình nghiên cứu của mình, Nông Quốc Chấn chú ý đến vấn đề bản sắc dân

tộc trong thơ, tính dân tộc trong thơ (hai bài viết Bản sắc dân tộc trong thơ và Trả

lời bạn thơ Mƣờng - tập Đƣờng ta đi, Nxb. Việt Bắc, 1970). Giai đoạn sau này, ông

hướng sự quan tâm đến trách nhiệm của người cầm bút trước thời cuộc (Độc lập

hòa bình và trách nhiệm của nhà văn trong tập tiểu luận Chặng đƣờng mới, Nxb.

Văn hóa, H, 1985). Giai đoạn sau 1986 ghi nhận những thành công nổi bật của Lâm

Tiến. Sau thành công của Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Lâm

Tiến tiếp tục cho ra mắt công trình Về một mảng văn học dân tộc (Nxb. Văn hóa

dân tộc, H, 1999). Trong cuốn sách này, ông đã bàn đến một số vấn đề đang đặt ra

cho văn học các dân tộc thiểu số hiện nay như: Văn học viết trước Cách mạng tháng

Tám 1945, phương pháp tiếp cận và nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số, tiếng nói

và chữ viết, vấn đề truyền thống và hiện đại, văn hóa. Những nhận xét, phân tích

qua những tác phẩm và tác giả văn học cụ thể như thơ Ngần Văn Hoan, Bế Văn

Phủng, Bàn Tài Đoàn, Lò Ngân Sủn, Y Phương. Như vậy, phần ưu ái vẫn dành cho

13

một số tác giả dân tộc Tày. Ở đây nhà nghiên cứu Lâm Tiến đã có những cách đánh

giá khá xác đáng và cung cấp nhiều tư liệu quý. Sau hai công trình kể trên, năm

2002, ông trở lại với cuốn Văn học và miền núi (Nxb. Văn hóa dân tộc, H.) giới

thiệu văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, các dân tộc thiểu số miền Nam. Điều

đáng chú ý ở công trình này là sự phân tích một số tác phẩm văn thơ đề tài miền núi

như Thằng bé củ mài (Mã A Lềnh), Quê hƣơng (Triệu Lam Châu); sắc thái riêng và

những hạn chế trong lí luận phê bình văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam...

Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam cũng quan tâm đến việc

tổ chức những hội thảo về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của những nhà thơ dân

tộc thiểu số nhiều thành tựu như Hội thảo về Bàn Tài Đoàn, Nông Minh Châu

(2004), Hoàng Triều Ân (2007), Ma Trường Nguyên (2009)... Bên cạnh công trình

của Hội là những đóng góp không nhỏ của cá nhân những người dân tộc thiểu số

viết phê bình như: Một mình trong cõi thơ (Hoàng Quảng Uyên, Nxb. Văn hóa dân

tộc, H, 2000); Thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số (Lò Ngân Sủn, Nxb. Văn hóa

dân tộc, H, 2001); Mã A Lềnh với Tần ngần trƣớc văn chƣơng (1998), Hà Lâm Kỳ

với Mỗi nét hoa văn (2002), Mai Liễu với Hƣơng sắc miền rừng (2008), Ma Trường

Nguyên với Hiện đại mà dân tộc (2010)... Một số tác giả tuy không xuất bản những

công trình riêng về nghiên cứu phê bình văn học dân tộc thiểu số nhưng luôn dành

sự quan tâm của mình về những vấn đề cụ thể: Vương Anh viết về thơ ca truyền

thống và hiện đại dân tộc Mường, Triệu Kim Văn viết về văn học người Dao,

Inrasara viết nhiều về văn học Chăm, Nông Viết Toại bàn đến vấn đề sử dụng ngôn

ngữ mẹ đẻ trong sáng tác thơ văn... Điều có thể nhận thấy rõ ở một số tác giả người

dân tộc thiểu số khi viết phê bình là sự khác biệt rõ rệt trong cách tiếp cận. Lò Ngân

Sủn với những nhận xét tinh tế nhưng bài viết thường dừng lại ở mức độ bình luận

và gợi mở, chưa có công trình, bài viết nào mang tính định hướng sâu. Trong khi

đó, Nông Quốc Chấn quan tâm đến nhiều vấn đề của văn học dân tộc thiểu số như

vấn đề bản sắc dân tộc, sử dụng ngôn ngữ dân tộc để sáng tác, khuyến khích các văn

nghệ sĩ sáng tạo và đầu tư hơn nữa cho những tác phẩm... với nhiều bài viết sâu sắc.

Thế hệ trẻ hơn có Inrasara quan tâm nhiều đến văn học Chăm, có lợi thế ngoại ngữ

nên tiếp cận những lý thuyết và trào lưu trên thế giới và giới thiệu cho đội ngũ tác

giả Chăm/ tác giả trẻ dân tộc thiểu số những vấn đề mới, cần thiết và nhiều bổ ích;

14

Dương Thuấn quan tâm nhiều đến đội ngũ tác giả trẻ của dân tộc Tày với nhiều bài

viết tinh tế, anh cũng dành hẳn một chuyện luận về văn hóa Tày khá công phu...

Trong các công trình đã xuất bản, thơ dân tộc thiểu số cũng được quan tâm

xem xét đến những vấn đề còn tồn tại chủ yếu: Văn học nghệ thuật các dân tộc

thiểu số thời kỳ đổi mới (Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 2007) tập hợp hơn 50 bài viết

về văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số. Bên cạnh một số bài viết của các tác

giả về văn học của từng dân tộc là một số bài viết bàn về các vấn đề chung của

văn học dân tộc thiểu số; Hoàng Văn An với Nét đẹp văn hóa trong thơ văn và

ngôn ngữ dân tộc, T.2: Hƣơng sắc núi rừng (Nxb. Hội Nhà văn, H, 2007) giới

thiệu và phân tích các tác phẩm thơ của các tác giả người dân tộc như Lò Ngân

Sủn, Mã Thế Vinh, Vi Thị Kim Bình... phân tích bản sắc của nghệ thuật dân tộc

do chính những nghệ sĩ của dân tộc tạo ra. Công trình Viện Văn học với văn học

dân tộc thiểu số của GS. Phan Đăng Nhật trên Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 1-

2009) có viết, nhà văn Vũ Ngọc Phan trong các công trình sưu tập cổ tích, ca dao,

dân ca thường quan tâm đến dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, việc nghiên cứu văn học

dân tộc thiểu số ở miền Bắc thực sự có bước chuyển biến quan trọng bắt đầu từ

các sự kiện mà Viện Văn học có đóng góp như: Lịch sử văn học Việt Nam, Văn

học dân tộc thiểu số trƣớc Cách mạng tháng Tám, Sử thi Đẻ đất đẻ nƣớc. Viện

Văn học cùng với nhà thơ Nông Quốc Chấn hoàn chỉnh bản thảo năm 1980 về Văn

học dân tộc thiểu số với 6 chương: Văn học các dân tộc thiểu số anh em từ buổi

đầu mở nước đến năm 1945, thần thoại và trường ca các dân tộc thiểu số, truyện

cổ dân gian, tục ngữ, dân ca và truyện thơ, văn học viết của trí thức dân tộc thiểu

số trước Cách mạng tháng Tám. Đây là sự khởi đầu, chưa thể hoàn chỉnh, nhưng

với công trình này, Viện Văn học đã đánh dấu một mốc quan trọng trong sự

nghiệp nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số. Từ đây mở ra cho một số công trình

khác kế tiếp Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng Tám

(1981) của Phan Đăng Nhật, Văn học dân gian các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam

(1983) của Võ Quang Nhơn.

Trên Tạp chí Văn học cũng trong tình trạng chung là chưa có nhiều bài viết

dành cho văn học dân tộc thiểu số. Một số bài viết mang tính chất tổng kết một vài

đặc điểm khái quát có thể kể đến như: Hà Văn Thư với: Mấy nét về văn học các dân

15

tộc thiểu số Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến nay (số 1-1960) và Vài nhận

định về văn học các dân tộc thiểu số từ Cách mạng tháng Tám đến nay (số 6 -1966),

đã tổng kết và đánh giá những thành tựu đạt được của văn học dân tộc thiểu số từ cổ

truyền đến văn học cách mạng; Nguyễn Khánh Toàn với Về văn học các dân tộc

thiểu số ở Việt Nam (số 3-1970); Nông Quốc Chấn với Mấy vấn đề về nền văn học

các dân tộc thiểu số (số 10-1964)... Giai đoạn sau 1986, Lâm Tiến với Vấn đề

truyền truyền thống và hiện đại trong văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (số 4-

1991); Mạc Phi với Giải thƣởng văn học các dân tộc thiểu số 1992 (số 2-1993);

Nguyễn Duy Bắc với Về bản sắc dân tộc trong sáng tác của các nhà thơ dân tộc

thiểu số (số 9-1994); Hoàng Văn An với Thơ xứ Lạng những năm 90 (số 11-1996);

Nguyên Ngọc với Mấy suy nghĩ về tình hình văn học các dân tộc thiểu số hiện nay

(số 9-1994); Lâm Tiến với Mấy suy nghĩ về lý luận, phê bình văn học các dân tộc

thiểu số (số 5-2006); Đỗ Thị Thu Huyền với Thơ dân tộc thiểu số 10 năm đầu thế kỉ

XXI (số 5-2012)...

Một số dân tộc có nhiều thành tựu thơ ca như dân tộc H’mông, Thái, Mường,

Dao, và gần đây là Chăm, tình hình nghiên cứu cũng không có được sự chú tâm

đúng mức như cách nhận xét của nhà văn Nguyên Ngọc “nhiều thực tế phong phú

chưa được tổng kết, thậm chí chưa được tập hợp lại một cách tương đối hệ thống;

nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn chưa được xới ra xem xét, nghiên cứu chặt chẽ,

thấu đáo”. Ví như với dân tộc H’mông, tình hình nghiên cứu về thơ ca mới chỉ được

bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây nhưng chỉ dừng ở mức độ đề

cập đến một số tác giả, tác phẩm (cuốn Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu

số của Lò Ngân Sủn đi sâu bàn luận thơ ca của các tác giả dân tộc thiểu số, trong đó

một vài nhà thơ hiện đại dân tộc H’mông cũng được nhắc đến với những đánh giá,

bình luận về đặc điểm thơ). Đến nay, công trình có hệ thống nhất là luận văn thạc sĩ

Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc H’mông thời kỳ hiện đại của Nguyễn Kiến Thọ

đã khái quát những nét cơ bản về nội dung và nghệ thuật của thơ dân tộc H’mông

hiện đại. Cũng có những nét tương đồng, thơ hiện đại dân tộc Thái mới chỉ được

sưu tầm, giới thiệu một cách khái quát qua một vài tác giả tiêu biểu như Cầm Biêu,

Lò Văn Cậy, Lƣơng Quy Nhân, Vƣơng Trung, Lò Cao Nhum...; sau đó đánh dấu

việc nghiên cứu có hệ thống bằng công trình Thơ ca dân tộc Thái thời kỳ hiện đại

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!