Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

thí nghiệm thực hành trường thpt môn sinh học chương trình phát triển giáo dục trung học 2011
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
www.daykemquynhon.ucoz.com
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TÀI LIỆU
THÍ NGHIỆM THỰC HÀNH
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Môn Sinh học
(Tài liệu lưu hành nội bộ)
Hà Nội, tháng 9 năm 2011
1
CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC TRUNG HỌC
VỤ GIÁO DỤC TRUNG HỌC
www.daykemquynhon.ucoz.com
Nhóm tác giả biên soạn tài liệu
1. GS.TS. Vũ Văn Vụ
2. PGS.TS. Mai Sỹ Tuấn
3. ThS. Lê Đình Tuấn
4. TS. Ngô Văn Hưng
5. ThS. Nguyễn Thị Linh
Biên tập nội dung
TS. Ngô Văn Hưng
2
www.daykemquynhon.ucoz.com
Lời nói đầu
Nhằm triển khai Đề án phát triển hệ thống trường THPT chuyên giai đoạn
2010 - 2020, với mục tiêu nâng cao chất lượng dạy học trong các trường THPT
chuyên và phát triển chuyên môn cho giáo viên chuyên sinh, Bộ Giáo dục và
Đào tạo tổ chức biên soạn tài liệu “Thí nghiệm thực hành trường THPT môn
Sinh học”. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học tăng cường dạy thí nghiệm
thực hành và thi chọn học sinh giỏi sinh học THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
mời các cán bộ quản lý chỉ đạo dạy học, các giảng viên đại học và các nhà
khoa học, giáo viên trực tiếp giảng dạy chương trình chuyên sinh học có nhiều
thành tích trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi và nghiên cứu khoa học,
tham gia viết tài liệu này. Cấu trúc tài liệu gồm có:
Phần 1. Giới thiệu chung về thí nghiệm thực hành môn Sinh học
Phần 2. 10 bài thí nghiệm thực hành môn Sinh học. Mỗi bài được viết
theo cấu trúc:
- Mục tiêu
- Cơ sở khoa học
- Thiết bị, hóa chất, mẫu vật
- Tiến hành thí nghiệm
- Phân tích kết quả và lập báo cáo
- Câu hỏi đánh giá và mở rộng vấn đề
Phần 3. Phụ lục (giới thiệu một số bài thi thực hành của IBO).
Mặc dù tài liệu được viết rất công phu, Tiểu ban thẩm định môn Sinh
học đọc góp ý và biên tập nội dung nhưng khó tránh khỏi còn có những sơ
sót nhất định. Các tác giả mong nhận được góp ý của quý thầy cô giáo và
độc giả khi sử dụng tài liệu.
Trân trọng cám ơn Tiểu ban thẩm định và bạn đọc.
Thay mặt các tác giả
TS. Ngô Văn Hưng
3
www.daykemquynhon.ucoz.com
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 3
Mục lục 4
Hướng dẫn sử dụng tài liệu 5
Phần 1. Giới thiệu chung về thí nghiệm thực hành môn Sinh học 7
Vai trò của dạy học thực hành đối với học sinh trường THPT chuyên 7
Thực trạng thí nghiệm thực hành môn Sinh học THPTvà các giải pháp
cải tiến thực trạng 8
Những yêu cầu cần thiết dạy thực hành sinh học có hiệu quả 9
An toàn thí nghiệm thực hành sinh học 13
Yêu cầu về kỹ năng thực hành sinh học (theo IBO) 30
Phần 2. 10 bài thí nghiệm thực hành môn Sinh học 34
Bài 1. Nhận biết một số thành phần hóa học của tế bào 34
Bài 2. Ảnh hưởng nhiệt độ, pH, các chất kìm hãm lên hoạt độ
của enzym. Xác định hoạt độ của một số enzyme 50
Bài 3. Quan sát tế bào dưới kính hiển vi. 64
Thí nghiệm co và phản co nguyên sinh
Bài 4. Thực hành lên men etilic 69
Bài 5. Tìm hiểu hoạt động của tim ếch 73
Bài 6. Thí nghiệm về điện sinh học 80
Bài 7. Chiết rút sắc tố từ lá. Xác định tính cảm quang của clorophin 85
Bài 8. Chứng minh quá trình hô hấp tỏa nhiệt mạnh 91
Bài 9. Quan sát các dạng đột biến NST trên tiêu bản cố định
hay trên tiêu bản tạm thời 94
Bài 10. Tính độ phong phú của loài và kích thước quần thể 110
Phần 3. Phụ lục 123
Phụ lục 123
Tài liệu tham khảo 163
Thông tin về tác giả 165
4
www.daykemquynhon.ucoz.com
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG TÀI LIỆU
Cuốn tài liệu này được sử dụng cùng với cuốn “Tài liệu bồi dưỡng
phát triển chuyên môn cho giáo viên trường THPT chuyên năm 2011 môn
Sinh học” của Bộ GDĐT (tháng 7 năm 2011).
Có hai quan niệm sai lầm cần tránh là:
- Chỉ khi nào có đủ trang thiết bị, hóa chất, mẫu vật như trong tài liệu
thì mới có thể tiến hành thí nghiệm thực hành sinh học được. Năm đầu tiên
có thể chọn những thí nghiệm thực hành phù hợp với điều kiện của địa
phương để thực hiện trước (ví dụ như bài nhận biết các chất hữu cơ trong
tế bào, bài quan sát tế bào, bài lên men, bài chiết rút sắc tố, quan sát tiêu
bản NST,…) đồng thời có kế hoạch khắc phục khó khăn, trở ngại để thực
hiện hết các nội dung thực hành trong những năm sau.
- Sẽ sai lầm nếu cho rằng chỉ cần thực hiện như nội dung các bài thực
hành trong tài liệu là tốt rồi. Những nơi có điều kiện về trang thiết bị và
giáo viên có thể mở rộng nội dung bài thực hành. Ví dụ bài 1 có thể 5ung
nội dung nhận biết 5ung5ic và axit 5ung5ic; bài 3 có thể 5ung nội dung
đếm số lượng tế bào; … Trong cuốn “Tài liệu bồi dưỡng phát triển chuyên
môn cho giáo viên trường THPT chuyên năm 2011 môn Sinh học” có giới
thiệu rất nhiều bài thực hành khác nữa.
Để sử dụng tài liệu hiệu quả nhất xin lưu ý mấy điểm sau:
- Đọc kĩ nội dung phần 1: “Giới thiệu chung về thí nghiệm thực hành
môn Sinh học”. Giáo viên và học sinh phải tường minh những yêu cầu cần
thiết dạy thực hành sinh học có hiệu quả, quy trình một bài thực hành sinh
học, quy tắc làm việc trong phòng thí nghiệm, và đặc biệt là “yêu cầu về kĩ
năng thực hành sinh học”.
- Đọc kĩ nội dung từng bài thực hành ở phần 2, căn cứ vào thực tiễn
địa phương để quyết định mục tiêu cụ thể cho từng nội dung thực hành thí
nghiệm đã chọn cho dạy học hay thi tuyển học sinh giỏi. Khi chọn nội
dung thực hành cần tính đến thời gian hoàn thành cho mỗi nội dung đó để
bố trí dạy học hay thi cử cho hợp lý.
5
www.daykemquynhon.ucoz.com
- Nghiên cứu kĩ phần cơ sở khoa học của thí nghiệm thực hành. Đây
chính là căn cứ để giải thích các hiện tượng quan sát được trong thí
nghiệm. Giáo viên có thể dành thời gian hướng dẫn (hoặc kiểm tra) học
sinh nội dung này.
- Giáo viên phải tìm hiểu và chuẩn bị đầy đủ thiết bị, hóa chất, mẫu
vật yêu cầu trong mỗi thí nghiệm thực hành (chú ý: có thể thay thế thiết bị,
hóa chất, mẫu vật sẵn có của địa phương mà không nhất thiết phải đúng
như trong tài liệu đã viết; để kích thích tư duy của học sinh có thể thay đổi
số liệu khác với hướng dẫn trong tài liệu rồi yêu cầu học sinh giải thích vì
sao kết quả thí nghiệm lại khác so với trong tài liệu). Trước khi thực hành
nhất định học sinh phải thành thạo các bước: kiểm tra dụng cụ thiết bị, hóa
chất, mẫu vật; trình tự các bước làm thí nghiệm thực hành.
- Trong mỗi bài thí nghiệm thực hành, giáo viên cần nghiên cứu thật
kĩ nội dung “phân tích kết quả và báo cáo” để hướng dẫn học sinh ghi chép
kết quả thực hành, xử lí các số liệu thu được, trình bày báo cáo.
- Phần câu hỏi đánh giá và mở rộng vấn đề là những gợi ý bước đầu.
Trong thực tiễn dạy học thực hành giáo viên có thể đưa thêm nhiều tình
huống mới để kích thích tư duy cho học sinh, thậm chí lấy ngay tình huống
cụ thể trong buổi thực hành để học sinh phân tích, thảo luận. Chú ý tham
khảo các bài thi thực hành của IBO được giới thiệu ở phần phụ lục.
- Giáo viên và học sinh có thể vào trang WEB của bộ môn Sinh
học: http://sites.google.com/site/diendanchuyensinh để tải về những tư
liệu và bài thực hành đã được quay băng.
Cuối cùng nếu trong quá trình thực hiện có gặp khó khăn gì thì liên hệ
với chúng tôi theo địa chỉ trong mục “Thông tin về tác giả” ở cuối tài liệu.
6
www.daykemquynhon.ucoz.com
Phần 1. Giới thiệu chung về thí nghiệm thực hành môn Sinh học
I. Vai trò của dạy học thực hành đối với học sinh trường THPT chuyên
“… Không thể hình dung được việc giảng dạy sinh vật học trong nhà
trường mà lại không có quan sát, không có thí nghiệm học tập.” B.P.
Exipốp (trong cuốn những cơ sở của LLDH). Quan sát và thí nghiệm là các
phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học tự nhiên, của các môn khoa
học thực nghiệm, trong đó có sinh học. Sinh học là một khoa học đã và sẽ
không thể phát triển được nếu không có quan sát, thí nghiệm.
Quan sát và thí nghiệm đã tạo khả năng cho các nhà khoa học phát
hiện và khai thác các sự kiện, hiện tượng mới, xác định những quy luật
mới, rút ra những kết luận khoa học và tìm cách vận dụng vào thực tiễn.
Đối với quá trình dạy học các môn khoa học tự nhiên, khoa học thực
nghiệm, quan sát và thí nghiệm cũng là phương pháp làm việc của học sinh
(HS), nhưng với HS những bài tập quan sát hoặc các thí nghiệm được giáo
viên (GV) trình bày hay do chính các em tiến hành một cách độc lập (thực
hành quan sát, thí nghiệm của HS) dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV
thường để giải quyết những vấn đề đã biết trong khoa học, rút ra những kết
luận cũng đã biết tuy vậy đối với các em HS vẫn là mới.
Thông qua quan sát, thí nghiệm, bằng các thao tác tư duy phân tích,
tổng hợp, trừu tượng hóa và khái quát hóa giúp các em xây dựng các khái
niệm. Bằng cách đó các em nắm kiến thức một cách vững chắc và giúp cho
tư duy phát triển.
Quan sát và thí nghiệm đòi hỏi phải có những thiết bị dạy học như
tranh ảnh, mô hình, các mẫu vật tự nhiên và các phương tiện thiết bị phục
vụ cho việc tiến hành các thí nghiệm.
Quan sát và thí nghiệm không chỉ cho phép HS lĩnh hội tri thức một
cách sâu sắc, vững chắc mà còn tạo cho các em một động lực bên trong,
thúc đẩy các em thêm hăng say học tập.
Tục ngữ có câu “Trăm nghe không bằng một thấy”, đủ nói lên vai trò
của quan sát thí nghiệm. Người Ấn Độ và người Trung Hoa cũng đã nói:
“Nghe thì quen, nhìn thì nhớ, làm thì hiểu”.
7
www.daykemquynhon.ucoz.com
Những phân tích trên đây không chỉ cho chúng ta thấy rõ tầm quan
trọng của thí nghiệm thực hành mà còn nhấn mạnh đến phương pháp sử
dụng các thí nghiệm thực hành đó để có thể đạt được hiệu quả cao đáp ứng
mục tiêu dạy học hiện nay của sự nghiệp giáo dục.
II. Thực trạng thí nghiệm thực hành môn Sinh học THPTvà các giải
pháp cải tiến thực trạng
Hiện nay số lượng và chất lượng thí nghiệm thực hành sinh học chưa
đáp ứng được yêu cầu của việc dạy học nói chung và đặc biệt là yêu cầu
việc đổi mới dạy học nói riêng. Tình trạng đó có thể có nhiều nguyên nhân,
phần vì kinh phí cho khu vực này còn hạn hẹp tuy đã có nhiều cố gắng,
phần vì trách nhiệm của nhà sản xuất (còn mà không dùng được, dùng
được thì cũng chóng hỏng), phần vì thiếu một sự quản lí chỉ đạo, động viên
những người tốt, việc tốt trong sử dụng và cải tiến sáng tạo thí nghiệm
thực hành sinh học hiện có. Như đã phân tích, hiệu quả dạy học còn tùy
thuộc vào phương pháp sử dụng các thí nghiệm thực hành. Nếu một bức
tranh, một thí nghiệm chỉ được sử dụng để minh họa và củng cố những
điều GV đã trình bày đầy đủ về phương diện lý thuyết sẽ hạn chế tư duy
sáng tạo của HS, HS hầu như không thu lượm được thêm gì về kiến thức,
nếu không phải chỉ để rèn luyện kĩ năng quan sát, thí nghiệm.
Nhưng nếu được sử dụng theo con đường tìm tòi nghiên cứu (khám
phá) để đi đến kiến thức cần lĩnh hội (kiến thức mới) sẽ có ý nghĩa khác
biệt cơ bản so với loại hình thí nghiệm nêu trên, nó giúp HS có điều kiện,
cơ hội phát triển tư duy sáng tạo – một phẩm chất và năng lực cần có ở con
người mới mà nhà trường có trách nhiệm đào tạo.
Đi theo con đường này, sau khi đã hiểu được nhiệm vụ cần làm sáng
tỏ (mục đích của thí nghiệm) bằng tư duy tích cực, HS sẽ hình thành được
các giả định (trong nghiên cứu khoa học đây chính là bước xây dựng giả
thuyết về vấn đề nghiên cứu từ sự nảy sinh câu hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra
nếu…?”). Câu hỏi được hình thành từ những liên tưởng dựa trên vốn kiến
thức và kinh nghiệm đã có của HS.
Khi giả định được hình thành, trong đó hàm chứa con đường phải giải
quyết, HS xây dựng kế hoạch giải quyết để chứng minh cho giả định đã
8
www.daykemquynhon.ucoz.com
nêu. Hai bước nêu giả định và xây dựng kế hoạch giải quyết chứng minh
cho giả định là hai bước đòi hỏi tư duy tích cực và sáng tạo. Đây là những
cơ hội rèn luyện tu duy sáng tạo cho HS rất tốt, là giai đoạn tiến hành thí
nghiệm tưởng tượng (“thí nghiệm trong tư duy”) định hướng cho hành
động thí nghiệm tiếp theo dựa trên kế hoạch đã được HS thiết kế (kế hoạch
dự kiến). Cuối cùng, căn cứ vào kết quả của thí nghiệm, HS rút ra kết luận,
nghĩa là HS lĩnh hội được kiến thức từ thí nghiệm một cách chủ động (mà
không phải do thày truyền đạt và HS tiếp thu một cách thụ động).
Hiện nay hầu hết các bài thực hành thí nghiệm sinh học ở THPT trong
chương trình và SGK được bố trí ở cuối mỗi chương chỉ mang tính chất
củng cố minh họa cho các kiến thức lý thuyết đã được trình bày trong các
bài học của chương trình dưới hình thức phần lớn là “bày sẵn” từng bước
cho HS. Hơn nữa số tiết thực hành quy định trong chương trình và SGK
cũng còn rất hạn chế. Rồi đây, chắc chắn số tiết này có thể sẽ được nâng
lên cho phù hợp với xu thế chung của giáo dục thế giới và tương ứng với
tính chất của các môn khoa học thực nghiệm.
Trước mắt trong khi chờ đợi, đòi hỏi lòng nhiệt tâm vì sự nghiệp giáo
dục của các thầy cô đang tiến hành các bài thực hành hiện có theo phương
thức mới ở những nội dung phù hợp và cũng có thể bổ sung thêm các thí
nghiệm thực hành sinh học vào các tiết dạy khi có thể và có điều kiện thích
hợp.
Trong tài liệu này, ngoài một số thí nghiệm thực hành đã quen làm,
chúng tôi sẽ giới thiệu một số bài thí nghiệm thực hành có tính gợi ý để
các đơn vị tham khảo và vận dụng trong điều kiện có thể, cũng có thể tiến
hành hình thức ngoại khóa hoặc đi đến các cơ sở có điều kiện về trang thiết
bị thí nghiệm thực hành sinh học để học tập.
III. Những yêu cầu cần thiết dạy thực hành sinh học có hiệu quả
Dạy thực hành, mục đích chính lx à rèn các kỹ năng thao tác chân
tay, các đức tính kiên nhẫn, biết chấp nhận thử thách và tự tìm cách vượt
qua các thách thức để đạt được mục tiêu của mình. Vì vậy học sinh phải tự
mình làm thí nghiệm cho dù các thao tác ban đầu còn vụng về và có thể
thất bại. Như vậy, nếu quan niệm thực hành chỉ là minh họa, trình diễn để
9
www.daykemquynhon.ucoz.com
học sinh xem thì việc tổ chức cho cả lớp học sinh vào một phòng thí
nghiệm làm cùng lúc là được nhưng học sinh không thể hình thành được
kỹ năng cũng như rèn luyện được những đức tính cần thiết của người làm
khoa học. Còn nếu để học sinh tự làm thì lại phải chia lớp thành nhiều
nhóm nhỏ (tối đa khoảng 10 em) thì các em mới có thể tự làm thí nghiệm
được và học sinh chỉ hình thành được kỹ năng khi được làm đi làm lại
nhiều lần một kỹ năng nhất định.
Một quan niệm không đúng về dạy thực hành là giáo viên thường
không đưa ra các tình huống khác thường để dạy học sinh cách phân tích
rút ra các kết luận phù hợp cũng như không biết cách tìm ra nguyên nhân
khi thí nghiệm không ủng hộ giả thiết ban đầu. Có thể lấy ví dụ cụ thể: Khi
làm bài thực hành chứng minh ảnh hưởng của cường độ ánh sáng đến tốc
độ quang hợp ở cây thủy sinh là rong đuôi chó. Cường độ quang hợp được
tính bằng lượng O2 thoát ra (đếm bằng số bọt khí/phút hoặc bằng khối
lượng O2 thu được trong ống nghiệm) còn cường độ ánh sáng có thể được
thay đổi bởi khoảng cách chiếu sáng hoặc bởi công suất của bóng đèn.
Trong bài học này ngoài thí nghiệm trên, giáo viên có thể tạo ra tình huống
trong đó cùng một cây rong đuôi chó ở thí nghiệm trước tạo ra rất nhiều O2
thì trong thí nghiệm khác lại không nhả ra một bọt khí O2 nào cho dù có
cho đèn vào gần hơn hoặc công suất bóng đèn tăng lên nhiều lần. Học sinh
được yêu cầu phải tìm ra nguyên nhân (đưa ra giả thuyết) và làm thí
nghiệm ủng hộ giả thuyết của mình là đúng. Như vậy mục đích cốt lõi của
dạy thực hành là rèn các kỹ năng khéo léo trong các thao tác tay chân,
các kỹ năng bố trí thí nghiệm, thu thập kết quả, giải thích kết quả thực
nghiệm, lý giải đưa ra các giả thuyết và tự tiến hành các thí nghiệm ủng
hộ hay bác bỏ giả thuyết của mình chứ không đơn thuần là minh họa cho
các bài lý thuyết. Như vậy dạy thực hành phát triển các kỹ năng tổng hợp
và do vậy tất cả các học sinh cần được dạy thực hành. Lưu ý là ngay cả
trong các kỳ thi Olympic Sinh học Quốc tế có sử dụng các trang thiết bị
hiện đại như điện di sắc ký, quang phổ vv… thì điểm của học sinh cao hay
thấp không phụ thuộc nhiều vào thiết bị (trừ phi học sinh chưa được làm
quen với thiết bị đó). Vì sử dụng thiết bị hiện đại cũng chỉ để thu thập số
10
www.daykemquynhon.ucoz.com
liệu, trong khi đó các kỹ năng đơn giản như pha loãng hóa chất, xử lý số
liệu thu được như vẽ đồ thị, rút ra các kết luận phù hợp, biết cách sắp xếp
thời gian hợp lý vv… lại quyết định kết quả cuối cùng.
Qui trình cho một bài thí nghiệm có thể gồm các bước như sau:
- Chuẩn bị thí nghiệm: GV phải có kế hoạch đảm bảo chuẩn bị đầy đủ
dụng cụ, hóa chất, mẫu vật và các điều kiện cần thiết khác để thí nghiệm
thành công. Có thể giao cho HS chuẩn bị nhưng phải kiểm tra.
- Phổ biến nội qui an toàn phòng thí nghiệm: Ngay khi bắt đầu một
bài thực hành, giáo viên cần phải hướng dẫn cho học sinh về qui tắc an
toàn trong phòng thí nghiệm. Điều này là hết sức cần thiết và phải làm
ngay mỗi lần học sinh vào phòng thí nghiệm. Bên cạnh đó cũng cần phổ
biến cách cấp cứu trong những trường hợp cần thiết như bỏng hóa chất,
băng bó khi bị thương vv…
- Bước 1: GV nêu mục tiêu thí nghiệm (hoặc hướng dẫn học sinh
phát biểu mục tiêu thực hành), phải đảm bảo mỗi HS nhận thức rõ mục
tiêu làm thí nghiệm để làm gì?
- Bước 2: GV hướng dẫn HS cách tiến hành thí nghiệm, phải đảm
bảo mỗi HS nhận thức rõ làm thí nghiệm như thế nào? Bằng cách nào?
Giáo viên giới thiệu qui trình thí nghiệm: Học sinh có thể tự đọc qui
trình thí nghiệm (nếu có sẵn trong bài thực hành) hoặc giáo viên giới thiệu
cho học sinh. Sau đó học sinh tự kiểm tra các loại hóa chất thiết bị, mẫu
vật xem có đáp ứng được với yêu cầu bài thực hành hay không.
Tiến hành thí nghiệm: Học sinh tự tiến hành thí nghiệm theo qui trình
đã cho để thu thập số liệu.
- Bước 3: Mô tả kết quả thí nghiệm. HS viết ra (hoặc nói ra) các
kết quả mà họ quan sát thấy trong quá trình làm thí nghiệm.
Xử lý số liệu thực nghiệm: Học sinh xử lý số liệu và viết báo cáo thí
nghiệm nộp cho giáo viên. Cuối buổi giáo viên có thể đưa ra các tình
huống khác với thí nghiệm để học sinh suy ngẫm và tìm cách lý giải. Phần
này GV có thể tham khảo sách Sinh học của Campbell & Reece ở mục
“Điều gì nếu?” sau mỗi thí nghiệm mà sách đưa ra.
11
www.daykemquynhon.ucoz.com
- Giải thích các hiện tượng quan sát được: đây là giai đoạn có
nhiều thuận lợi để tổ chức HS học theo phương pháp tích cực. GV có thể
dùng hệ thống câu hỏi dẫn dắt theo kiểu nêu vấn đề giúp HS tự giải thích
các kết quả.
- Rút ra kết luận cần thiết: GV yêu cầu HS căn cứ vào mục tiêu
ban đầu trước khi làm thí nghiệm để đánh giá công việc đã làm.
- Chú ý: Các thí nghiệm sinh học có thể là thí nghiệm định tính
hay định lượng. Các thí nghiệm định tính thì không nên quá tiết kiệm
nguyên liệu, sẽ khó quan sát kết quả. Các thí nghiệm định lượng thì cần
chính xác hàm lượng các chất làm thí nghiệm mới có kết quả. Ví dụ: khi
làm thí nghiệm tách chiết ADN, nếu cho ít dịch lọc hay ít chất tẩy rửa hoặc
quá ít nước cốt dứa thì sẽ rất khó có kết quả khả quan.
Tóm tắt quy trình một bài thực hành
• Bước 1. Xác định mục tiêu (cho GV và cho HS). Yêu cầu của
bước này là HS phải nhận thức được và phát biểu rõ mục tiêu (trả lời câu
hỏi: để làm gì?)
• Bước 2. Kiểm tra kiến thức cơ sở và kiểm tra sự chuẩn bị thực
hành (trả lời câu hỏi: có làm được không?).
• Bước 3. Xác định nội dung thực hành (trả lời câu hỏi: làm như
thế nào?)
• Bước 4. Tiến hành các hoạt động thực hành (trả lời câu hỏi:
quan sát thấy gì? Thu được kết quả ra sao?).
• Bước 5. Giải thích và trình bày kết quả, rút ra kết luận (trả lời
câu hỏi: tại sao? Mục tiêu đã hoàn thành hay chưa?).
• Viết báo cáo thực hành.
12
www.daykemquynhon.ucoz.com
IV. An toàn thí nghiệm thực hành sinh học
1. Nguyên lý an toàn sinh học
Nguyên lý cơ bản của an toàn sinh học là phòng ngừa, là làm giảm
thiểu hoặc hạn chế nguy cơ gây hại cho con người và môi trường khi tiếp
xúc với sinh vật và các vật liệu lây nhiễm lưu giữ trong phòng thí nghiệm.
Nguyên lý an toàn sinh học được xác định là sự kết hợp của ba nhân
tố phòng ngừa trong thực hành và kĩ thuật phòng thí nghiệm, thiết bị an
toàn và thiết kế điều kiện làm việc tốt. Người ta chia biện pháp phòng ngừa
thành hai loại, phòng ngừa sơ cấp và phòng ngừa thứ cấp.
Phòng ngừa sơ cấp : là bảo vệ người và môi trường thí nghiệm khỏi
tác hại của các tác nhân gây ô nhiễm. Phòng ngừa sơ cấp bao gồm chủ yếu
các kĩ thuật an toàn trong phòng thí nghiệm và khi tiếp xúc với sinh vật.
Phòng ngừa thứ cấp : là bảo vệ môi trường bên ngoài phòng thí
nghiệm khỏi sự phát tán của các vật liệu lây nhiễm, bao gồm cả việc thiết
kế phòng thí nghiệm, lớp học,... sao cho an toàn và đảm bảo vệ sinh lao
động.
- Phòng ngừa trong thực hành và kĩ thuật phòng thí nghiệm:
Phòng thí nghiệm cần phải được xây dựng đảm bảo quy định về an
toàn sinh học, trong đó cần xác định rõ các tác nhân và chất nguy hại có
thể có trong phòng thí nghiệm. Xác định rõ các kĩ thuật làm việc đặc biệt
và đưa ra các các quy định rõ ràng nhằm giảm thiểu hoặc hạn chế sự bùng
phát của các tác nhân gây hại.
Nhân viên mới được tuyển dụng vào làm việc trong phòng thí nghiệm,
học sinh và sinh viên tới học trong phòng thí nghiệm cần phải được chỉ
dẫn chu đáo về các tác nhân gây hại đặc hiệu, được học về kiến thức và kĩ
thuật phòng thí nghiệm, được phổ biến các quy định an toàn trong phòng
thí nghiệm sinh học.
- Thiết bị an toàn:
Thiết bị an toàn trước hết nhằm bảo vệ trực tiếp nhữnh người tiếp xúc
với sinh vật và các tác nhân hây hại. Các thiết bị an toàn phổ biến của
phòng thí nghiệm sinh học bao gồm tủ cấy an toàn sinh học, thiết bị li tâm
13
www.daykemquynhon.ucoz.com
an toàn, các dụng cụ an toàn đựng mẫu vật (dụng cụ thủy tinh, ống
nghiệm,...), dụng cụ đảm bảo an toàn cá nhân như găng tay, quần áo bảo
hộ lao động, áo choàng, khẩu trang, mũ bảo vệ,....
Tủ cấy an toàn là phương tiện bắt buộc sử dụng để ngăn ngừa sự lây
nhiễm do đổ vỡ hoặc bụi, nhất là khi thực hành vi sinh vật. Có ba loại tủ
cấy an toàn sinh học, tủ cấy loại I và II đảm bảo an toàn sơ cấp cho cán bộ,
học sinh và sinh viên khi làm thí nghiệm, đồng thời bảo vệ mẫu vật thí
nghiệm (vi sinh vật, tế bào,...) tránh bị nhiễm khuẩn từ bên ngoài. Tủ cấy
an toàn sinh học III có cấu tạo đặc biệt đảm bảo mức độ an toàn cao nhất
cho cán bộ và sinh viên trong phòng thí nghiệm.
Thiết bị li tâm an toàn sử dụng ống li tâm có nắp đậy, tránh bụi nước
thoát ra ngoài khi li tâm gây hại cho con người và môi trường phòng thí
nghiệm.
Trong nhiều trường hợp không thể thực hiện thí nghiệm trong tủ cấy
an toàn sinh học thì thiết bị an toàn cá nhân là vật dụng tối cần thiết, hạn
chế rủi ro cho con người. Ví dụ, khi tiến hành mổ động vật, khi rửa và bảo
dưỡng các thiết bị thí nghiệm cần sử dụng đầy đủ dụng cụ bảo vệ cán
nhân.
- Phòng ngừa trong thiết kế và xây dựng các cơ sở làm việc đảm bảo
an toàn và vệ sinh lao động:
Phòng thí nghiệm được thiết kế đúng quy cách, có trang thiết bị tương
ứng với chức năng và cấp độ an toàn sinh học của phòng, đảm bảo an toàn
và vệ sinh lao động. Các phòng thí nghiệm có cấp độ an toàn sinh học I và
II cần được thiết kế tách riêng với lối đi công cộng, nơi tiêu độc và khu vệ
sinh.
2. Nguyên tắc phân loại tác nhân sinh học theo nhóm rủi ro và cấp độ
an toàn sinh học
Các tác nhân sinh học được phân loại theo nhóm và phân thành bốn
cấp độ khác nhau. Nguyên tắc phân loại tùy thuộc vào từng quốc gia các
các tổ chức quốc tế khác nhau như cấp độ an toàn sinh học của Liên minh
Châu Âu, cấp độ an toàn sinh học của viện Y học Quốc gia Mỹ,.... Sau đây
14
www.daykemquynhon.ucoz.com
là ví dụ về phân loại nhóm rủi ro và cấp độ an toàn sinh học theo quy định
an toàn sinh học phòng thí nghiệm của WHO:
- Nhóm rủi ro loại 1 (RG1): gồm những sinh vật dường như không
gây rủi ro hoặc gây rủi ro thấp cho con người và động vật.
- Nhóm rủi ro loại 2 (RG2): gồm các sinh vật có khả năng gây bệnh
cho con người nhưng ở mức độ không nghiêm trọng. Có thể có khả năng
lây nhiễm bệnh từ phòng thí nghiệm nhưng đã có biện pháp phòng ngừa và
chữa trị, hạn chế được sự lan truyền bệnh.
- Nhóm rủi ro loại 3 (RG3): gồm các sinh vật có khả năng gây bệnh
cao cho con người, nhưng thông thường không lan truyền từ người này
sang người khác và đã có biện pháp phòng và chữa chạy hiệu quả.
- Nhóm rủi ro loại 4 (RG4): gồm các tác nhân gây rủi ro cao cho con
người và động vật, bệnh có thể lây truyền từ người này sang người khác và
chưa có biện pháp phòng và chữa trị.
Từ việc phân loại các nhóm rủi ro, người ta có thể xây dựng các tiêu
chuẩn cụ thể cho mỗi cấp độ an toàn sinh học.
3. Phòng bệnh nghề nghiệp và đề phòng tai nạn
Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO), ước tính hằng năm có tới 120
triệu tổn thương trên thế giới do tai nạn lao động, 67-157 triệu trường hợp
mắc bệnh nghề nghiệp và khoảng 200.000 người tử vong khi làm việc. Ở
Việt Nam, ước tính năm 2000, có tới 4.081 người lao động phát hiện bệnh
nghề nghiệp, 3334 người bị tại nạn lao động, 941 người bị thương nặng,
331 người tử vong.
Trong môi trường lao động nói chung, môi trường học tập và nghiên
cứu sinh học trong phòng thí nghiệm sinh học nói riêng luôn tiềm ẩn khả
năng mắc phải nhiều bệnh tật. Khi môi trường bị ô nhiễm bởi các sinh vật
gây hại thì dễ dàng truyền bệnh cho con người. Nguyên tắc chung của
phòng bệnh lây truyền từ sinh vật là :
- Cách ly người có biểu hiện bệnh, theo dõi, báo cáo và xử lý bệnh.
- Ngăn cản sự phát tán mầm bệnh bằng các phương pháp tiệt trùng,
tiêu đốt, thực hiện vệ sinh phòng thí nghiệm.
- Sử dụng vắc xin và các thuốc cần thiết để phòng trừ.
15