Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Theo dấu chân người tàng hình
PREMIUM
Số trang
242
Kích thước
1.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1811

Theo dấu chân người tàng hình

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Alecksandr Avdeenko

THEO DẤU CHÂN NHỮNG NGƯỜI TÀNG HÌNH

Việt Long dịch

Tập I

MỤC LỤC

Mở đầu .

I. "Tuyệt mật" .

II. Mối lo ngại trong đế chế "Hatter Industries" .

III. Trang sử từ Chicago .

IV. Thượng nghị sĩ thứ 101 .

V. Nhà Trắng .

MỞ ĐẦU

Có những bí mật không cho phép được tiết lộ... Hỡi ôi, đôi khi lương tâm con người

đặt lên anh một gánh nặng tràn đầy kinh hãi đến nỗi chỉ có thể trút bỏ nó xuống mồ.

Cho nên bản chất của mọi tội ác vẫn là điều bí mật.

EDGAR POE

Vào sáng sớm, chuông gọi cửa vang lên trong căn hộ của tôi ở Moskva. Trong nhà,

ngoài tôi ra, không có ai cả. Tôi bực dọc đứng dậy rời bàn viết và tiến ra mở cửa.

Ở đầu cầu thang, trong bóng tối lờ mờ của buổi sớm ảm đạm là một phụ nữ với cái

túi xách to bằng da màu đen trong tay. Khuôn mặt gầy gò, má hóp sâu và đôi mắt u

uẩn như đã khóc nhiều. Người phụ nữ lạ khoác chiếc bành tô ngắn với đai thắt bằng

da, cổ áo và cổ tay cũng làm bằng thứ da mềm màu đen. Bà đi đôi ủng cao đến đầu

gối, ống rất hẹp, bằng da thuộc. Một đám mây đặc vô hình của loại nước hoa ngoại

nào đó bao quanh bà.

- Bà hỏi ai? - tôi hỏi.

- Chào ông. Ông hẳn là không nhận ra tôi?

Bà nói tiếng Nga với một chút giọng lơ lớ, phải tinh ý lắm mới nhận ra. Bà không

xướng họ, cũng chẳng gọi tên tôi. Tôi nhìn vị khách buổi sớm này và vắt óc để nhớ

xem tôi đã từng gặp bà ở đâu và vào lúc nào..

- Ông không nhận ra tôi cũng dễ hiểu thôi, - người phụ nữ vận đồ đen nói, - chúng

ta đã gặp nhau kể cũng đã hơn mười năm rồi. Và cũng chẳng phải chỉ tại thời gian...

Chúng tôi vào phòng ngoài. Tôi đỡ lấy chiếc áo bành tô của bà và đẩy cửa vào căn

phòng to, rộng, sáng sủa.

- Xin mời bà vào!

Tôi nhìn kỹ bà khách dưới ánh sáng tự nhiên ban ngày và cảm thấy có lẽ mình đang

dần dần đoán ra. Chẳng lẽ đó lại là Velga Rudolfovna, mẹ của anh bạn quen người

Mỹ của tôi là Serge? Tôi đã gặp anh ở nơi xa lắc xa lơ đối với Moskva, ở Hợp chủng

quốc Hoa Kỳ. Nhưng vào hồi đó Velga Rudolfovna, đang độ xuân sắc, hoạt bát, căng

đầy nhựa sống. Hồi ấy bước đi của bà còn uyển chuyển, duyên dáng, trang phục của

bà còn trắng và mỏng lướt như của cô dâu. Bây giờ bà bị cùm trong bộ đồ đen.

Nỗi bất hạnh nào đã giáng xuống người đàn bà Mỹ vốn hạnh phúc kia? Bà để tang

ai đó?

Bà ngồi khuỵu xuống mép đi văng, kéo cái gạt tàn lại phía mình, rồi rút bao thuốc

lá ra, bà hút và đi văng nhả khói thật sâu như những tay sành nghiện vẫn làm.

- Ông nhớ rồi chứ?...

- Vâng, thưa bà Velga Rudolfovna! Rất hân hạnh được gặp bà. Số phận nào run rủi

bà ở chính ngay Moskva này? Bà không có ý định đến đây, bà vẫn nói thế cơ mà.

- Vâng, tôi vẫn nói thế. Nhưng kể từ hồi đó đã biết bao nhiêu thay đổi. Tôi còn lại

có một mình. Tôi mất hết người thân rồi.

- Chồng bà đã mất?

- Thằng Serge nhà tôi không còn nữa. Người ta giết nó rồi.

- Khi nào vậy? Ai giết?

- FBI[1] đâm bất lực trong những trường hợp như thế. Hung thủ. cho đến giờ vẫn

chưa tìm ra. Cái nước Mỹ đáng nguyền rủa của Hoover [2] ! Tôi sẽ không trở về đấy

nữa.

- Đầu đuôi chuyện ấy ra sao, thưa bà? ở đâu ạ?

- Ở Niagara Falls. Ông còn nhớ cái thành phố nhỏ ấy?

- Tôi còn nhớ lắm chứ! Serge yêu thác Niagara lắm mà.

- Vâng, nó yêu lắm. Trong chuyến đi Niagara cuối cùng, nó có đến chỗ tôi và để lại

những ghi chép của nó.

Bà nhấc cái túi to màu đen đang nằm trên sàn, dưới chân mình, lấy ra quyển vở dày

và chìa cho tôi.

- Đấy! Ông đọc đi, rồi ông sẽ rõ tất cả.

Tôi cầm lấy quyển vở. Tôi có cảm giác nó nặng như cục chì.

- Serge bảo tôi chuyển cho ông nhật ký của nó, nếu như có chuyện gì xảy ra với

nó.

- Anh ấy đã thấy trước được cái chết của mình?

- Nó lúc nào cũng ở trong vòng nguy hiểm. Công việc của nó như thế. Tôi nhận

được tin ngay sau khi nó chết. Có kẻ gọi điện cho tôi và bảo: "Con trai bà đã nhảy

xuống vực Niagara". Cái giả thuyết dối trá đó được báo chí và cảnh sát vơ lấy. Serge

yêu đời, nó không thể tự tử được. Người ta đã giết nó. Giọng của kẻ gọi điện cho tôi

run run vì một nỗi vui sướng khó kìm. Không hiểu vì sao mà tôi chưa mất trí. Tôi

chạy ra khỏi nhà, nhảy lên ôtô và phóng đi. Có đến cả trăm lần tôi suýt kẹt chết người.

Cả trăm lần tôi có thể bị tan xác. Cảnh sát giao thông đuổi theo tôi. Thế mà tôi đã kịp

đến! Người ta đã lôi Serge lên khỏi vực, nhưng chưa dám đem đi. Nó nằm ngay gần

thang máy của tháp. Trên người nó còn đôi giầy rách nát, cái quần cũ, cái áo khoác da

thuộc, những miếng vá ở khuỷu tay và cái áo sơ mi trắng có cravat kiểu Nga, chính

cái mà ông đã tặng nó khi đến thăm gia đình tôi. Ông còn nhớ chứ?

Velga Rudolfovna hút sang điếu thuốc mới. Nhưng bà quẳng nó ngay lập tức và

khóc òa lên..

Sau một lúc, đã hơi bình tâm lại, bà lấy từ túi xách ra chiếc phong bì to, hẹp:

- Cái này dính liền với ghi chép của nó đấy.

Bà lại khóc. Rồi lau nước mắt, bằng một giọng nhỏ nhẹ, chậm rãi khi dịch ra tiếng

Nga, bà đọc bức thư cuối cùng của con trai, có lẽ nó được viết ra vài giờ trước khi

chết:

- "Mẹ thân yêu ơi, người bạn duy nhất của con! Con viết phòng trường hợp bất trắc,

nếu có tai ương gì xảy ra với con. Tính mệnh con đang ngàn cân treo sợi tóc. Con có

thể bị trừng phạt vì muốn kể cho mọi người nghe sự thật về Hatter và bè đảng của lão

ta.

Ngay với mẹ, con cũng chưa nói gì về ý định của mình. Con không thể làm khác

được. Tha lỗi cho con nhé, mẹ thân yêu. Chuốc lấy lo âu và mạo hiểm, con đã chơi trò

đi săn nguy hiểm và đã quay về với "mảng da đầu" của ông Bạc tỉ trong tay. Mảng da

đầu của Hatter là những ghi chép của con về những trò kinh doanh bí mật của lão ta,

về những món tiền đẫm máu và bẩn thỉu, về những cái vòi thấy được và không thấy

được vươn từ lão ta đến Nhà Trắng, Capitol [3] , Lầu Năm góc.

Những ghi chép này hình thành theo những dấu vết còn nóng hổi của các sự kiện,

phần lớn là theo những cảm tưởng trực tiếp. Con chưa có dịp chọn lựa một cách bình

thản những sự kiện thiết yếu nhất. Giá như con có thêm dù chỉ một tháng nữa, con sẽ

sắp xếp lại, bổ sung cuốn sách bằng những tài liệu sau chót, vạch mặt đến tận cùng

bọn chó chết hút máu người khác không tanh ở Lầu Năm góc. Hỡi ôi! Con thấp thỏm

từng khoảnh khắc, khi mà bọn giết người được phái đến sẽ giật bút khỏi tay con.

Con đã quen với ý nghĩ rằng có thể phải đem đời mình ra trả giá cho dự định vạch

bộ mặt thật của những kẻ quyền thế của thế gian này. Sự lựa chọn được làm có ý thức.

Con không sợ chết. Con chỉ sợ một điều: Không thực hiện được ý tưởng của mình.

Mẹ ơi, giúp con nhé! Mẹ hãy gìn giữ bản thảo này. Bằng mọi giá. Hãy chuyển nó

cho... Mẹ cũng biết là cho ai rồi... Cho những người có thể đăng được nó.

Mẹ hãy nói với những người bạn của mẹ con mình là con đã cố nói rất ít về mình,

nhất là sau những phát súng ở Dallas, bởi vì con không viết tiểu sử bản thân mình.

Nhân vật chính của cuốn sách là lối sống Mỹ, sự tôn sùng đồng tiền, tôn sùng bạo lực

và lăng mạ con người, sự tôn sùng thói nô lệ vừa được ngụy trang lẫn công khai, và

tôn sùng sự chém giết vì đồng tiền.

Velga Rudolfovna im lặng hồi lâu để lấy lại sức, bà lại hút thuốc và tiếp tục đọc:

- Con viết nốt dòng này dưới ánh sáng của một ngày mới bắt đầu. Con ngồi bên cửa

sổ và xem những bông tuyết to hạt của lễ Giáng sinh đang rắc xuống và làm trắng dần

thảm cỏ xanh, bụi cây xén và mặt đường nhựa đen. Ông già Noel[4] được làm bằng

vải vụn gác lối ra vào đã bạc trắng và nghiêm nghị ra. Cây cối bất động. Không có

bóng người. Không có một dấu vết nào trên tuyết mới. Một chú chim đã chuyền cành,

tỉa tót bộ lông sặc sỡ và líu lo điệu hót vui tươi. Thế gian quả là đẹp trong giây phút

bừng tỉnh. Con càng cảm thấy sâu sắc hơn bao giờ hết tuổi xuân của mình. Con muốn

nghe tiếng gầm của Niagara. Con muốn đón mặt trời mọc ở đâu đó trên núi Đá tảng.

Con muốn bước dọc những cồn cát Nevada. Con muốn cưỡi con Mustang[5] phi suốt

nước Mỹ, từ Chicago đến Los Angeles. Nhưng hơn hết nữa, con muốn cảm thấy mình

là một con người chân chính, không thuộc quyền của cả Lầu Năm góc, cả ông Bạc tỉ,

cả bọn tay chân của lão ta. Làm kẻ bợ đợ cho những hòm tiền quả không thể nào chịu

nổi. Thà vung gươm với kẻ thù, còn hơn đợi đòn đánh hậu đểu cáng của hắn.

Trên con đường trắng từ phía thành phố, đã hiện ra chiếc ôtô đầu tiên. Để lại sau

mình vết đen, nó lăn bánh thẳng tới căn nhà của con và dừng lại. Cửa trước của chiếc

Mercury mở toang ra, một người vạm vỡ, cao to trong chiếc áo da cổ lông nhảy xuống

đất phủ đầy tuyết. Hắn là ai? Nhân viên Cục điều tra liên bang? Tên côn đồ trong đội

tàng hình "Phụng sự thánh thần" của Batistini? Hay là kẻ đặc biệt tâm phúc của Mark

trán to?

Thôi, có lẽ là hết. Con nhét bản thảo và lá thư cho mẹ vào chỗ bí mật.

Mọi sự qua rồi! Người áo da kia hoá ra là người đưa điện báo đêm. Anh đem đến

bức điện cấp tốc của mẹ chúc mừng con ngày lễ Giáng sinh.

Cám ơn mẹ yêu quý. Trong lòng con thanh thản quá. Con cất bức điện vào túi gần

nơi tim, và lên đường đến chỗ mẹ đón lễ Giáng sinh, rồi sau đó đến thác nước. Ôi, nếu

con hoàn thành nổi việc này!

Để đề phòng mọi sự, một lần nữa xin vĩnh biệt mẹ! Mẹ hãy sống thật lâu, thật lâu

vào nhé. Chúc cho đời mẹ không còn phải thấy cảnh chém giết ở đất nước ta, ở Việt

Nam và trên toàn thế giới. Mong sao cho những Tổng thống xa lạ với dân chúng, dù là

hiện diện hay tàng hình sẽ không lọt vào Nhà Trắng nữa. Mong sao những chính phủ

do dân và vì dân [6] ở nước ta được thiết lập."

Serge của mẹ.

Niagara Falls. Sáng 25 tháng Chạp 1963.

PHẦN MỘT

"TUYỆT MẬT"

Thế là tôi đã quyết: sẽ lên đường săn đuổi mảng da đầu của ngài Tỉ phú. Trong tay

tôi không phải là khẩu súng săn có thước ngắm, cũng không phải khẩu súng tự động

Browning, mà là một ngòi bút bình thường. Tôi có ý định viết mọi sự thật mà tôi nắm

bắt được.

Chẳng cần kể lể dài dòng, do những nguyên nhân nào mà tôi đi đến quyết định này

và làm điều đó khó khăn đến mức nào. Tôi không viết bảng xưng tội. Nhân vật chính

của bản thảo này không phải là tác giả của nó, mà là lối sống khét tiếng của chúng ta.

Trước tiên có vài lời dẫn giải về Serge Brooks.

Tôi sinh ra ở New York khoảng ba mươi năm trước. Được đặt tên là Serge để tỏ

lòng yêu kính ông nội tôi, người gốc Pháp. Bố mất khi tôi còn nhỏ. Mẹ tôi là người di

cư từ Latvia, đã tái giá và cư ngụ ở vùng lân cận thác Niagara, trong nhà của John

Brooks, một nhà kinh doanh lớn. Tôi lớn lên ở đó. Đã tốt nghiệp Đại học Tổng hợp

Harvard. Có bằng cử nhân văn chương. Chưa vợ. Trong giới làm ăn ở nước Mỹ, tôi là

người nổi tiếng và là tác giả của các tác phẩm bán chạy nhất: "Thời thơ ấu và thanh

xuân của một tỉ phú tương lai", "Nhà kinh doanh Harold Hatter". Sách hợp khẩu vị kẻ

đặt hàng, nên hắn đã mời tôi về làm việc với tư cách là "ngòi bút riêng", Tổng biên tập

báo Texas Sun (Mặt trời Texas).

Đám kinh doanh coi tôi là người của giới mình. Các văn sĩ và ký giả độc lập có tài

thì khinh bỉ, gọi tôi là bầy tôi trung của đế chế Hatter. Bọn bất tài và cầu danh lợi thì

ghen tị với thành tích của tôi. Cả hai loại người đó đều không hiểu tôi thật sự.

*

Như thường lệ, ngày làm việc của tôi bắt đầu không phải ở tòa soạn Texas Sun, nơi

mà tôi đáng lẽ phải có mặt trên cương vị Tổng biên tập, mà ở nơi an toạ riêng của một

trong những dinh cơ của Hatter: ở Dallas, Washington, New York, bãi biển Miami, ở

Niagara Falls hay trên đảo Lodge Palmos.

Mỗi buổi sáng, lão Bạc tỉ cho gọi tôi vào: lão muốn nghe tin tức mới, đọc cho tôi

viết những thư từ giao dịch quan trọng nhất, theo quan điểm của lão ta, vào lúc đầu óc

còn sảng khoái, mạn đàm những vấn đề hóc búa v.v...

Chúng tôi hiếm khi ngồi lâu một chỗ. Trong năm nhất là những khi thời tiết thay

đổi đột ngột, chúng tôi lại chuyển đến ở những nơi có khí hậu ấm áp ôn hòa hay tương

đối mát mẻ. Hiện giờ ở Texas đang đẹp trời, nên chúng tôi sống ở Dallas.

Cái ngày, khi tôi quyết định bắt đầu cuốn sách của mình, còn in mãi trong tôi.

Thường thì tôi tránh tự ý thò mặt ra trước cặp mắt Hatter, tức là những khi không có

lời mời đặc biệt. Đúng tám giờ sáng hay muộn hơn một tí, khi tôi đã kịp liếc qua các

tờ báo lớn buổi sáng, phân loại tin tức thế giới ra loại đặc biệt quan trọng và quan

trọng vừa vừa, thì trong phòng tôi vang lên tiếng chuông điện thoại và Hatter gọi tôi

lên tầng hai, nơi lão sống cô đơn một mình, và là nơi có những cửa sổ chấn song và

cửa lên bằng những tấm vật liệu đạn xuyên không thủng.

Tin hôm nay quan trọng đến nỗi tôi dám vi phạm cái trật tự quy cũ từ lâu và không

đợi được gọi, tôi lao lên cầu thang với xấp báo số ra đặc biệt trong tay. Tôi chắc rằng

sự đột nhập của tôi sẽ chẳng gây cho Hatter, sau khi lão biết chuyện, một sự cáu kỉnh

hay ngạc nhiên nào. Sự việc diễn ra đúng như vậy.

Dù đêm qua Hatter không ngon giấc, dù lão có khó ở đi chăng nũa, dù có những lo

toan đè nặng lên lão, dù lão có vội vã công việc đến thế nào đi nữa, lão cũng không

bao giờ quên lãng thái độ cư xử đối với tôi. Lúc nào lão cũng tỏ rõ sự chú ý, và chào

hỏi một cách đôn hậu. Đã có thời, bằng cách đó lão đã chinh phục được tôi. Lúc này

đây: lão bước ra đón tôi, chìa tay và mỉm cười:

- Chào tôn ông.

Tôi chẳng nhớ kể từ khi nào và tại sao lão lại gọi tôi như vậy. Dĩ nhiên tôi chẳng là

tôn ông tôn iếc gì cả.

- Nào, có chuyện gì vậy.

Lão thường bắt đầu ngày làm việc với tôi bằng những lời như thế. Nhưng hôm nay,

trong lời nói của lão, tôi cảm thấy có cái gì đó khác thường mang tính trọng thể mà

hôm qua không thấy có và có thể ngày mai sẽ không gặp. Vẻ mặt lão thật đặc biệt.

Còn giọng nói cất lên một cách hân hoan. "Lão biết hết rồi" - Tôi nghĩ và bắt tay vào

nhiệm vụ của mình mà nỗi hưng phấn đã chìm đi rõ rệt. Tôi thông báo một cách hết

sức vắn tắt những gì mà ở các báo New York Time (Thời báo New York),

Washington Post (Bưu điện Washington) và các báo khác phải chiếm đến vài trang.

- Ở Sài Gòn, - tôi nói, - đã xảy ra đảo chính. Một hội đồng tướng lĩnh đã chiếm

quyền lực. Tổng thống Diệm và giám đốc mật vụ Nhu bị bọn lính mang súng tự động

giết chết khi định chạy trốn khỏi dinh Tổng thống đang bị bao vây.

Lão nghe tôi nói và gật đầu:

- Vâng, thưa tôn ông, tôi đã biết mọi chuyện từ vài giờ trước. Bạn bè tôi ở

Langley [7] đã gọi điện cho tôi. Tôi đã có thì giờ nghiền ngẫm sự kiện này. Nên anh

đừng ngạc nhiên trước sự bình thản của tôi.

Nào đâu chỉ là bình thản! Hatter, tay chơi poker máu mê, biết che dấu một cách tài

tình những tình cảm và ý nghĩ của mình ngay cả đối với những kẻ thân cận, vậy mà

cũng không kìm được nữa. Cả người lão toát lên sự vui sướng, lão cười hết cỡ và hỏi:

- Nào, thế báo chí của ta bình luận những sự kiện ở Việt Nam ra sao?

- Nhiều kiểu lắm. Washington Post chẳng ngại ngùng gì, gọi cố độc tài là kẻ đứng

đầu triều đại nhà Diệm, là kẻ độc đoán đã thối nát đến xương tuỷ và đưa đất nước đến

vực thẳm, và cho rằng bây giờ đã đến giai đoạn hồi sinh của nước cộng hoà. New

York Time cũng giữ một quan điểm tương tự, nhưng có rào thêm: dù sao Diệm cũng

đã làm không ít việc hữu ích cho Tổ quốc mình và cho chúng ta, những người Mỹ.

Suốt những năm dài, ông đã là người bạn chung thủy của chúng ta. Và vẫn sẽ là người

bạn, nếu như...

- Đến đây thì ông ta đã mất bay đi rồi, - Hatter ngắt lời tôi. - Còn gì nữa?

- Chicago Sun (Mặt trời Chicago), với vẻ chỉ trích rõ rệt, lộ liễu nói bóng gió đến

chuyện Washington có dính líu trực tiếp đến những gì xảy ra ở Sài Gòn. Và tờ báo nói

ngay rằng, với việc sụp đổ của chế độ gia đìn h trị Diệm và cái chết của ông ta, một

pha chiến tranh mới đang mở màn ở Việt Nam: sự leo thang chiến tranh có quân đội

Mỹ đông đảo trợ giúp. Đoạn cuối bài báo khẳng định: cuộc đảo chính ở Sài Gòn chỉ

làm béo những kẻ sản xuất vũ khí cho lục quân Mỹ.

- Báo nói thẳng ra thế à?

- Vâng, đây ông xem.

Hatter đọc tờ báo, quẳng nó đi và cười khẩy.

- Những anh hàng thịt Chicago đang ghen tị với ta đấy mà.

- Sao mà không ghen tị cho được!

- Tôi nói và báo cáo tiếp.

- Tờ Globe (Địa cầu) Boston thì thận trọng: chẳng chửi cũng chẳng thương Diệm.

Còn đây New York Herold Tribune (Diễn đàn thông tin New York) dành cho sự kiện

Sài Gòn không chỉ bản tin tràng giang đại hải, mà còn có cả tiểu phẩm có minh họa

nhan đề là "Nó đã được thực hiện như thế nào?". Đây, ông ngẫm xem. Vẽ cả hình

Kennedy.

Hatter nhìn tờ báo và phá lên cười:

- Không lẽ ông ta lại đáng sợ đến thế kia? Không giống. Không hề giống chút nào.

- Dẫu sao ông hãy đọc bài tiểu phẩm cái đã, ông Harold. Người viết là kẻ biết rõ

ngọn nguồn sự việc.

- Thế cơ à? Hay thật! Hừ, thằng đểu, nó cũng biết điều nọ điều kia đấy. Nhưng do

đâu nhỉ? Ai đưa tin cho hắn? Làm sao hắn lại đánh hơi được là ta có nhúng tay vào sự

kiện này? Về cuộc gặp gỡ của tôi với Phó Tổng thống Johnson sau khi ông đi Sài Gòn

về, chỉ có ba người biết: anh, Mark và Arthur. Ai nhỉ?

- Có thể, ai trong số người của Johnson. Hay chính là Johnson.

- Không khác được. Thôi được. Tiểu phẩm là tiểu phẩm. Chẳng ai nghiêm túc tiếp

nhận nó. Còn gì nữa?

- Trên các trang báo Philadelphia Inquirer (Người điều tra Philadelphia) thì có mấy

nhận xét và tấm ảnh kể về cuộc sống phóng đãng của hai anh em kẻ bị giết, Tổng

thống và giám đốc mật vụ, về cách bài trí của dinh Tổng thống bị các lực lượng nổi

dậy ném bom, về những thứ rượu cất giữ trong hầm rượu, những thứ quần áo trong tủ

và lũ họ hàng thân thích nắm quyền.

- Những chuyện vớ vẩn đó tôi không quan tâm.

- Thế còn bài phỏng vấn người đẹp em dâu Diệm?

- Hừ, mụ ấy lảm nhảm những gì?

- Mụ ta cam đoan rằng biết chính xác kẻ nào, vì sao và theo lệnh ai đã tiến hành đảo

chính và giết Tổng thống. Mụ dọa sẽ vạch trần ra.

Hatter phẩy tay khinh bỉ:

- Cứ cho mụ ta cục tác. Mụ chả biết gì đâu. Hết rồi chứ?

- Vâng, chủ yếu là hết rồi. Còn lại là những tiểu dị thôi.

Hatter tiến lại gần, đặt tay lên vai tôi:

- Thế nào, còn cái gì in trong lòng anh, hở tôn ông?

- Trong lòng tôi?

Đội ơn Chúa, khi tiếp xúc với Hatter, tôi còn chưa mất khả năng đỏ mặt và lúng

túng. Sếp của tôi nhận thấy điều đó và thỏa mãn cười ngất:

- Nào, thổ lộ những tâm tư thầm kín ra đi, mỹ nương!

- Cái đó không hứng thú đâu, ông Hatter ạ.

- Sao lại không? Anh dù sao cũng là "ngòi bút riêng" của tôi mà.

- Vâng, là "ngòi bút" không hơn. Tôi ghi chủ yếu những gì ông đọc cho.

- Ấy, ấy, đừng có giả vờ ngây ngô nữa. Anh vẫn thường sắp xếp lại lời tôi theo ý

mình. Và thành ra đơn giản và rõ ràng hơn. Nào, nói đi.

- Không, Hatter ạ, không đâu. Tôi đâu dám liều thi thố với ông. Tốt hơn là ông hãy

nhìn vào lòng tôi và đọc ra những gì viết ở đó.

Lão lại phá lên cười với vẻ mãn nguyện rõ rệt:

- Cũng không đến nỗi ngốc. Chà, thưa tôn ông, cả tôn ông, cả những người khác

đều không thể đọc được những gì in trong lòng tôi. Cả tôi cũng thế. Có cái tôi nhìn

thấy rõ, còn có cái thì phủ lớp mù dày đặc. Tôi chỉ có thể nói cho anh lúc này là tôi

đặt nhiều hy vọng ở hội đồng quân sự thay Diệm. Người của tôi đã tiếp xúc với họ.

Vốn đã được đưa vào guồng quay. Ta sẽ đợi lái. Hãy khắc vào tâm khảm như thế, tôn

ông ạ. Nào, bây giờ thì cầm lấy bút ghi đi.

Hatter gõ gót giầy như ngựa gõ móng, sải bước dọc phòng từ cửa sổ này đến cửa sổ

khác và tuôn ra bức thư cho người bạn và đồng hương tốt nhất của lão. Kết quả của

việc đọc của lão và việc ghi của tôi là thế này:

"Tâm trí tôi luôn hướng về ông ngay khi nhận được mẩu tin mong mỏi từ lâu của

bạn bè. Đã hoàn thành! Mọi cái diễn ra đúng như Ông muốn, như Ông đoán trước. Tôi

còn nhớ kỹ câu chuyện dài của chúng ta sau khi Ông từ đó trở về. Tôi khâm phục tầm

nhìn xa, trí tuệ, sự hiểu biết của Ông về những gì cần phải làm vào chính những giờ

khắc lịch sử này cho chính phủ ta và cho nước ta, nước hùng mạnh nhất, kiên quyết

nhất, giàu có nhất và là nước duy nhất trên thế giới có khả năng bảo vệ nền dân chủ

nói chung và lối sống của chúng ta nói riêng.

Nhân dịp vui sướng này, tôi gửi đến Ông những lời chúc mừng chân thành nhất,

lòng yêu mến keo sơn và sự kính trọng sâu sắc của tôi. Tôi tin, hỡi bạn thân mến, rằng

Ông từ nay về sau cũng "cứ thế mà giữ". Tôi gắn những hy vọng lớn lao với hoạt

động hàng ngày của Ông.

Ôm hôn Ông và chúc sức khoẻ".

Hatter theo thói quen giữ bí mật, không hề nêu tên người bạn mình lấy một lần. Lão

cũng chẳng để lộ cái gì cụ thể trong thư, chúc mừng bạn vì lý do gì và khâm phục cái

gì. Nhưng kẻ đồng hương bạn lão, tất nhiên là sẽ hiểu cả.

*

Vào cuối buổi làm việc, khi tôi đã sắp rời tòa soạn, thì một người có khuôn mặt hẹp

và cái mũi sắc tựa như dao bước vào phòng làm việc của tôi. Anh ta khép chặt cửa và

tựa lưng vào nó, nhìn chằm chằm vào tôi bằng cặp mắt buồn bã và thông minh của

một con chó không nhà. Anh ta hỏi, giọng khàn khàn, giận dữ:

- Ông là Brooks? Chủ bút tờ Texas Sun?

Tôi vội đi ăn, có thể thanh thản rũ bỏ vị khách bất ngờ này. Nhưng dẫu sao tôi đã

không làm điều đó. Tôi im lặng, gật đầu và chỉ cho anh ta chiếc ghế bành. Anh ta vận

comple bằng phlanel xám sẫm, sơ mi trắng có cravat, trông rất chỉnh tề, vậy mà sao

tôi vẫn có cảm tưởng lùi xùi như chú gà chọi sắp lao vào cuộc đấu. Vai trò của chú gà

kia dĩ nhiên là phần tôi.

Kinh nghiệm biên tập của tôi không nhiều, chỉ mới hai năm, tuy vậy qua thời gian

ngắn đó, tôi đã học được cách phân loại ngay từ cái nhìn đầu tiên khách của Texas

Sun ra các loại nguy hiểm và an toàn, chán ngấy và thú vị. Tay mặt hẹp, lùi xùi này,

khỏi phải bàn, có vẻ gì đó nguy hiểm. Trông hao hao như kẻ mất trí.

- Quả thế, thưa ông, tôi là Brooks, còn ông...?

Tôi ngồi xuống sau bàn, để tay lên nút tín hiệu báo động, và sốt ruột đợi hắn lao bổ

vào tôi.

Hắn ngồi xuống ghế, lấy khăn to lau khuôn mặt đỏ húp lên và nói:.

- Xin phép tự giới thiệu, thưa ông Brooks. Tôi là Robert Thomson, thành viên ủy

ban chống chiến tranh Việt Nam.

- Xin lỗi, ông vừa nói gì vậy?

- Robert Thomson.

- Không, cái ấy tôi hiểu. Ông nói là thành viên ủy ban...

- Vâng, thành viên ủy ban New York chống chiến tranh Việt Nam.

- Ái chà! Hóa ra lại có cả cái ủy ban như thế nữa kia.

- Vâng, nó mới thành lập. Bởi bàn tay tôi, ông hãy nhớ vậy.

- Tôi đã hiểu rồi. Hân hạnh được làm quen với ông, ông Thomson. Vậy thì, cái gì

đã dẫn ông đến tòa báo chúng tôi?

- Trước khi trình bày ngọn ngành sự việc, tôi thấy cần thông báo cho ông biết điều

sau đây.

Trên đầu gối anh ta là chiếc va li nhỏ, hẹp và phẳng bằng da cá sâu non, có khóa tử

tế cùng hàng chữ bạc tên của chủ nhân. Ông Thomson giữ nó nâng niu cứ như nó

chứa chất đầy kim cương.

- Ông sẽ được biết, ông Brooks ạ, - giọng ông ta kéo dài ra cứ làm như tôi phản đối

ông ta, vị khách lạ lùng nói tiếp, - rằng phần tôi có đủ đôla để ngồi ăn không cả đời

tôi, cả đời con tôi. Tôi có bất động sản ở New York và Los Angeles. Đã tốt nghiệp

Harvard. Phó chủ tịch một hãng. Đã chiến đấu ở Việt Nam. Đã làm việc ở Lầu Năm

góc trong ban nghiên cứu và ban liên lạc với dư luận công chúng. Chưa bao giờ bị

truy cứu trách nhiệm bởi ủy ban điều tra các hoạt động chống Mỹ. Sĩ quan dự bị. Đã

được thưởng huy chương "Trái tim rực đỏ".

Tôi làm cử chỉ dang tay và mỉm cười - chẳng còn làm cách nào khác được.

- Thật quá nhiều ưu điểm đối với một người Mỹ, thưa ông.

- Xin lỗi, nhưng tôi phải nói tất cả điều đó cho ông hay.

- Tại sao lại phải? Không có những lời mào ấy, tôi cũng vẫn nghe ông nói cơ mà.

- Tôi không tin điều đó ngay cả bây giờ, sau những lời tốt đẹp của ông.

- Thử tin xem. Cái gì đã đưa ông đến chỗ chúng tôi? Ông đã viết bài báo, truyện

ngắn hay phóng sự nào đó?

- Không! - Thomson nói và nhẹ nhàng vuốt ve những gai trên lớp da cá sấu non.

- Ông muốn bác bỏ một bài báo đã xúc phạm đến danh dự của ông?

- Không. Tôi muốn thông báo, ai là kẻ đã tiến hành đảo chính ở Việt Nam, và ai đã

giết Tổng thống Diệm và một số điều khác nữa.

- Ái chà! Không hơn không kém. Thế chính mắt ông đã trông thấy cảnh giết Tổng

thống Diệm?

- Không, nhưng tôi...

- Ông đã ở Sài Gòn thời gian ấy?

- Không, nhưng...

- Xin lỗi, thế thì do đâu ông có thể biết ai đã tiến hành đảo chính và ai đã giết

Diệm?

- Tôi biết. Do đâu thì không quan trọng. ảnh sao các tài liệu tuyệt mật của Nhà

Trắng, Lầu Năm góc và Bộ Ngoại giao đã lọt vào tay tôi. Những tài liệu này dọi ánh

sáng tỏ tường vào những công việc đen tối của chúng ta ở Việt Nam.

Anh ta lấy từ túi quần bí mật ra một chiếc chìa khóa nhỏ, đút vào ổ khóa của chiếc

vali đắt tiền của mình, vặn hai lần, mở vali rồi rút ra một tập dầy những ảnh sao; lấy

cái trên cùng, anh ta chìa nó cho tôi và nói:

- Tài liệu này đã được mười năm rồi. Nó được làm tại Nhà Trắng dưới thời chính

phủ Truman. Nó chứng tỏ rằng, trên thực tế chính phủ Truman đã ép nhà cầm quyền

Pháp thời đó mở cuộc chiến tranh ở Đông Dương! Tiền Mỹ với máu Pháp và Việt

Nam. Tám mươi phần trăm tất cả các chi tiêu quân sự của Pháp ở Việt Nam là do

chính phủ Mỹ đài thọ.

Tôi chưa kịp làm quen kỹ với tấm ảnh, thì anh ta đã chìa ra tấm thứ hai.

- Còn tài liệu này chứng tỏ rằng cả người kế tục Truman, Tổng thống thứ ba mươi

ba của Hoa Kỳ, Eisenhower, cũng rắp tâm lật đổ chế độ cộng sản ở Bắc Việt Nam.

Khi không làm được điều đó, ông ta đã tìm mọi cách phá hiệp định Geneva về Việt

Nam, ký vào năm một ngàn chín trăm năm mươi tư. Ông xem đi. Không, không, đây

không phải là chuyện hư cấu. Và Tổng thống hiện nay, Kennedy, đã lại đi theo vết các

tiền bối của mình. Ông có biết Kennedy đã nói gì với Eisenhower khi tiếp quản Phòng

bầu dục không? "Cần bao nhiêu thời gian để ném một sư đoàn Mỹ từ Hoa Kỳ sang

Việt Nam?". Đây, lại một tài liệu nữa, sinh ra dưới thời Kennedy. Bản ghi nhớ về các

vấn đề an ninh quốc gia. Bản này xuất hiện nhờ công tác của nhóm tác chiến về Việt

Nam, được lập ra theo lệnh của Tổng thống. Trong đó có đoạn như sau. Ông nghe

đây!... Một: phái nhân viên tình báo vào Bắc Việt Nam. Hai: phái nhân viên tình báo

"bổ sung" vào Bắc Việt Nam bằng đường không do các đội bay dân dụng làm thuê

theo hợp đồng. Ba: cho các đơn vị biệt kích Nam Việt Nam xâm nhập Đông Nam Lào

để phát hiện và tấn công các căn cứ và mạng lưới giao thông của cộng sản. Bốn: lập

mạng lưới kháng chiến, các cơ sở và các nhóm bí mật nhằm hoạt động phá hoại và

gây rối trên lãnh thổ Bắc Việt Nam. Năm: rải truyền đơn từ máy bay xuống Bắc Việt

Nam.

Tổng thống Kennedy ngày mười một tháng năm, năm một nghìn chín trăm sáu

mươi mốt đã hoàn toàn tán thành chương trình do nhóm tác chiến về Việt Nam lập ra

và bản ghi nhớ đã trở thành chương trình hành động của Lầu Năm góc. Ông xem đi!...

Vài tháng sau, vào tháng mười cùng năm, Kennedy ra chỉ thị bổ sung mới cho Lầu

Năm góc tổ chức các hoạt động du kích, sử dụng các lực lượng đồng minh của Mỹ

trong trường hợp cần thiết để cắt ngang đường tiếp tế của cộng sản ở Sê-pôn (Lào).

Khi đó Kennedy đã lệnh cho Bộ Ngoại. giao chuẩn bị ra Sách trắng, trong đó trách

nhiệm xâm lược Nam Việt Nam sẽ đặt lên Bắc Việt Nam.

Tướng Taylor thời gian này đang thực hiện sứ mạng đặc biệt ở Sài Gòn. Ông ta gửi

về bức điện cho Nhà Trắng và Lầu Năm góc. Đây là bản sao của nó: "Quan điểm của

tôi là chúng ta nên cử nhóm tác chiến sang để đảm bảo cho sự có mặt quân sự của Mỹ

ở Việt Nam, ngõ hầu xua tan mối nghi ngờ của Tổng thống Ngô Đình Diệm ở sự sẵn

sàng đứng về phía ông của chúng ta trong trường hợp đối địch quân sự với Việt Cộng

hoặc Việt Minh".

Taylor khuyên Tổng thống gửi sang Việt Nam những đạo quân Mỹ lớn, ngụy trang

là nhóm chiến thuật cung cấp vật chất, kỹ thuật để giúp đỡ chế độ Diệm. Thêm vào

con số nghìn đầu tiên của cái gọi là các cố vấn Mỹ rải ra trong quân đội Nam Việt

Nam, phải thêm, theo ý Taylor, vài nghìn nữa. Đây này, lại một bức điện của Taylor

gửi từ Philippine tháng mười cùng năm và có dòng chõ: "Dành riêng cho Tổng

thống". Trong đó Taylor đòi gửi ngay sang Nam Việt Nam tám nghìn lính Mỹ. Khi

ấy, hai năm trước đây, Kennedy chưa gửi lục quân sang Sài Gòn như Taylor đề đạt.

Nhưng bây giờ, sau hai năm, ở Việt Nam đã có tới mười sáu nghìn cố vấn. Sang năm,

con số đó sẽ còn tăng lên. Sự việc đang tiến tới một cuộc can thiệp lớn. Tổng thống

Kennedy ráo riết chuẩn bị cho cuộc xâm nhập công khai vào Việt Nam.

Mới đây, vào tháng hai năm ngoái, khi phát biểu tại một cuộc họp báo có tiếng

vang, đề cập đến vấn đề Việt Nam và sứ mạng của tướng Taylor, Tổng thống

Kennedy đã nói những lời sau đây: Tổng thống Ngô Đình Diệm yêu cầu viện trợ

thêm... Chúng ta đã tăng thêm viện trợ. Chúng ta đang thực hiện sự giúp đỡ về vật

chất kỹ thuật, giúp về vận tải và huấn luyện Người Mỹ đang tham gia vào những nỗ

lực này..."

Dối trá, dối trá thô bạo và không thể tha thứ được! "Diệm yêu cầu!...". Có lẽ, cầu

xin chưa đủ nước mắt, cúi mình và thề thốt trung thành với chúng ta chưa đạt yêu cầu.

Có lẽ, đến Diệm cũng chưa hiểu rằng ông ta với người Mỹ không cùng đường. Cho

nên mới trở nên không vừa ý Nhà Trắng và Lầu Năm góc. Này, này, còn những tài

liệu mới nữa, đặc trưng cho chính phủ yêu hòa bình của chúng ta.

Và ông Thomson đẩy ra góc bàn cả đống bức ảnh có dòng chữ "Dành riêng cho

Tổng thống", "Cho chính Mac Namara", "Chỉ cho Bộ trưởng Ngoại giao", "Tuyệt

mật".

Trong số tài liệu ấy, tôi quan tâm nhất tới ghi chép của trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao

Hillsman gửi cho ông chủ của mình, trong đó có nói phải tiến hành đảo chính ở Sài

Gòn và gạt bỏ Tổng thống Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm khét tiếng. Đây là cốt lõi

quan trọng của nó... "Nếu Diệm có bước tiến chính trị tại phía Việt Nam Dân chủ

Cộng hoà, ví dụ như mở cuộc thương lượng về trung lập hoá, thậm chí nếu chỉ xuất

hiện tin đồn về cuộc thương lượng như thế hay nguy cơ gián tiếp về khả năng ấy, Hoa

Kỳ phải:

... Hướng các tướng lãnh thực hiện cho ra trò cuộc đảo chính... Nếu Diệm đề nghị

với Tổng thống Pháp De Gaulle ủng hộ việc trung lập hoá Việt Nam, Mỹ phải:

... Công khai chỉ ra rằng Việt Nam không thể trung lập hoá có hiệu quả, chừng nào

cộng sản còn chưa mất quyền kiểm soát Bắc Việt Nam... Khi mà cuộc đảo chính

chống Diệm ở Nam Việt Nam bắt đầu được đem ra thực hiện, chúng ta có thể lấy cớ

nhân dân Việt Nam hiển nhiên bác bỏ sự liên hiệp giữa Diệm và Cộng sản... Để ngăn

ngừa các lực lượng quân đội trung thành với Diệm đóng ở ngoài Sài Gòn ủng hộ

Diệm, chúng ta phải sẵn sàng dập tắt liên lạc vô tuyến với các đơn vị này, đồng thời

cho phá các cầu cần thiết để cản trợ sự tiến quân của các đơn vị này... Nếu cần, chúng

ta phải gửi sang Việt Nam quân đội Mỹ để bảo đảm thắng lợi cho phe đảo chính".

Tôi lướt mắt qua ghi chép của Hillsman cho đến hết, nghĩ ngợi một chút rồi hỏi:

- Ông Thomson, ông cho biết Bộ trưởng Ngoại giao đã phản ứng thế nào trước đề

nghị không úp mở này của người trợ lý thân cận của mình?

- Ông ta tán thành hết.

- Có bằng chứng chứ?

- Có. Đây này.

Tôi lại được biết một tài liệu nữa - bản sao ghi chép báo cáo của viên trùm ngành

ngoại giao. Dean Rusk không muốn khó nhọc thêm và chỉ chép lại gần như đúng từng

bản luận văn hiếu chiến của cấp dưới và gửi đến Nhà Trắng dưới chữ ký của chính

mình.

Tôi mong muốn kẻ tiết lộ này cho tôi xem và nói càng nhiều càng tốt, nên không hà

tiện câu hỏi, đôi khi còn cảm thấy mình ngây ngô nếu xét về phía mình là chủ bút

Texas Sun.

- Thế thái độ của Tổng thống đối với cuộc đảo chính cung đình đã vạch ra là như

thế nào? - tôi hỏi.

Thomson nhanh chóng và rõ ràng trả lời câu hỏi này:

- Mùa hè năm nay ở Nhà Trắng và ở Đại sứ quán tại Sài Gòn đã thảo luận một vấn

đề phức tạp đến đau đầu: chúng ta phải dựa vào ai ở Việt Nam trong tương lai, vào số

tay sai cũ là triều Diệm hay các tướng lĩnh mới đang bất mãn với tên hoàng đế không

vương miện của mình. Cuộc tranh luận diễn ra rất lâu và sôi nổi. Cuối cùng Tổng

thống Kennedy và các tờ-rớt trí tuệ của ông ta đi đến kết luận là Diệm không có khả

năng và cũng không muốn tiến hành những cải cách tự do trong nước, rằng hắn là kẻ

theo đạo Thiên chúa căm thù tín đồ đạo Phật đến mức bệnh lý, rằng phải xem Diệm

và em hắn, trùm mật vụ Nhu như những kẻ độc đoán thối nát, những kẻ đàn áp một

cách dã man tín đồ đạo Phật và các đối thủ chính trị của mình và cực kỳ nguy hiểm

cho Hoa Kỳ. Phải gạt bỏ anh em hắn. Tài liệu đây, mời ông xem.

Tôi đọc tờ giấy, còn anh ta thì vẫn giảng giải tiếp cho tôi:

- Hai ngày trước khi đảo chính, phụ tá về an ninh quốc gia cho Tổng thống Mark

George Bandy chỉ thị chặt chẽ lần cuối cùng cho đại sứ Lodge: "Nếu một cuộc đảo

chính có sự lãnh đạo vững vàng nổ ra, thì lợi ích của chính phủ Mỹ đòi hỏi nó phải

thành công" [8] . Ông thấy đấy, nhà cầm quyền của chúng ta thẳng thắn làm sao.

Không cần một cái lá nho nào cả.

Tôi đọc đi đọc lại từng tài liệu. Thú vị thật! Tư liệu tuyệt vời cho các nhà viết tiểu

thuyết. Tôi lên tiếng:

- Chà. Có nghĩa là, đích thân Kennedy chuẩn y âm mưu đảo chính?

- Vâng.

- Thế còn "Đấng bề trên thiêng liêng" [9] của Tổng thống Diệm?

- Cũng đồng ý loại bỏ Diệm. Diệm đã biết quá nhiều bí mật của Mỹ. Không thể để

hắn sống được. Nhưng trong tài liệu không nói đến điểm này. Điều đó là dĩ nhiên. Cái

đó là phải ý tại ngôn ngoại.

Người cuối cùng nói chuyện qua điện thoại với Diệm vào đêm thảm họa của Diệm

là đại sứ ta ở Sài Gòn. Tổng thống Diệm đã gọi điện cho Cabot Lodge trực tiếp từ

dinh của hắn ngày mùng một tháng mười một vào hồi bốn giờ ba mươi sáng. Tôi đã

kiếm được bản tốc ký của cuộc nói chuyện này.

- Bản tốc ký?! Của một câu chuyện diễn ra ngày mùng một tháng mười một ở cách

xa chúng ta tít tắp?! Ông Thomson ạ, ông làm việc hết sức nhanh nhạy đấy. Theo tôi

hiểu, ông phải có bạn bè trong biệt thự của ông đại sứ nhà ta và trong dinh của Diệm.

Thành thật! Cho tôi dòm qua xem nào.

Tôi ghi lại nội dung bản tốc ký chính xác cho đến từng dấu phảy, theo bản sao của

Thomson.

Diệm: Một vài đơn vị đã nổi loạn. Tôi muốn biết lập trường của Hoa Kỳ.

Lodge: Tôi coi mình chưa được thông tin đầy đủ để có thể trả lời câu hỏi của ông.

Tôi nghe có tiếng súng, nhưng chưa được biết tường tận về các sự kiện. Ngoài ra, cho

phép tôi ghi nhận rằng bây giờ ở Washington là 4 giờ 30 đêm và vị tất chính phủ Mỹ

đã có thể hình thành một quan điểm nào đó về những cái đang xảy ra.

Diệm: Nhưng chắc ông cũng phải có một khái niệm chung nào đó chứ! Rốt cuộc,

tôi là nguyên thủ quốc gia. Tôi đã cố gắng thực hiện nghĩa vụ của mình. Và bây giờ

tôi muốn hành động theo sự sai khiến của nghĩa vụ và của ý nghĩ lành mạnh. Nghĩa vụ

đối với tôi là cái cốt yếu nhất.

Lodge: Ông tất nhiên là đã làm tròn nghĩa vụ của mình, như tôi đã nói với ông sáng

nay, tôi khâm phục sự dũng cảm của ông và những gì ông đã làm cho Tổ quốc mình.

Không ai có thể tước bỏ những công lao này của ông.

Tôi lo lắng cho an ninh của bản thân ông. Như người ta đã báo cho tôi, những

người lãnh đạo cuộc nổi dậy đề xuất cho ông và em ông lối thoát an toàn ra nước

ngoài, nếu các ông từ bỏ quyền lực. Ông có nghe nói đến điều đó không?

Diệm: Không (sau giây lát yên lặng). Ông có biết số điện thoại của tôi không?

Lodge: Có. Nếu tôi có thể giúp ích gì cho việc bảo đảm an ninh cho ông thì xin ông

cứ gọi điện cho tôi.

Diệm: Tôi đang cố vãn hồi trật tự... [10]

Khi tôi đã đọc xong bản sao tốc ký và trả nó cho Thomson, thì anh ta nói:

- Sau câu chuyện điện thoại này, không một người Mỹ nào nhìn thấy Diệm và nói

chuyện với hắn. Hôm sau người ta tìm thấy hắn bên nắp cống thoát nước. Hắn đã

chết.

- Ông có biết hắn bị giết trong tình huống nào không?

- Có. Sau khi nói chuyện với Lodge, tất nhiên, hắn hiểu là đã bị người Mỹ phản bội

và quyết định cùng với em hắn chạy trốn. Bọn họ chuồn ra khỏi dinh Tổng thống đang

bị bao vây bằng lối bí mật dưới đất, nối với hệ thống tiêu nước. Khi lên khỏi nắp cống

thì anh em hắn bị tóm. Bọn lính mang súng tự động xỉa hàng tràn đạn vào anh em hắn.

Hiển nhiên là nếu như không có lệnh thì bọn lính đã để cho chúng sống. - Anh ta cầm

lấy bản sao và đọc: - "Tôi lo lắng cho an ninh của bản thân ông. Như người ta đã báo

cho tôi, những người lãnh đạo cuộc nổi dậy đề xuất cho ông và em ông lối thoát an

toàn ra nước ngoài, nếu các ông từ bỏ quyền lực. Ông có nghe nói đến điều đó

không?". Diệm đã nghĩ và nói: "Không". Hắn không muốn chấp nhận tối hậu thư của

đại sứ. Không muốn từ bỏ quyền lực nhận được từ người Mỹ. Không muốn dung hòa

với việc chúng ta đã phản bội và bán rẻ hắn.

- Chà! - tôi nói, - một Tổng thống thủ tiêu một Tổng thống. Lớn thủ tiêu bé.

Kennedy liều lĩnh thật. Gì thì gì, chứ thế là ông ta đã gạt bỏ một nhà lãnh đạo cứng cổ

của một quốc gia bè bạn, người đồng minh của mình. Ông ta đã tạo nên một tiền lệ

nguy hiểm. Đã xảy ra một lần, thì cứ liệu đấy, người ta cũng có thể xử sự với ông ta

đúng như thế.

- Vâng, có thể, - ông Thomson đồng ý. - Đã được chứng minh từ lâu rằng kẻ nào

vung gươm lên đầu tiên kẻ đó sẽ chết. Cũng đã được chứng minh rằng chính sách đối

ngoại là sự tiếp tục của chính sách đối nội. Kennedy hoặc là quên điều đó, hoặc là cố

ý coi thường chân lý lâu đời này. Ông ta chắc là cho rằng ở nước Mỹ chúng ta không

thể có đảo chính.

- Có thể có! Giết Tổng thống trong điều kiện chúng ta cũng ngang với đảo chính.

Những lời cuối cùng của tôi làm Thomson hoạt bát lên rõ rệt. Anh ta nhìn tôi không

còn độc ác như trước nữa. Trong chốc lát, vô hình quan điểm của tôi đã trở thành

đồng quan điểm với anh ta. Nhận ra điều đó, tôi tỉnh ngộ ra và nói:

- Ông Thomson, tôi đâm phát sợ cho bản thân. Tôi biết về chính phủ của mình

nhiều quá, nhiều đến quá mức cho phép đối với một người Mỹ tốt. Tướng Taylor hễ

tiện dịp lại khẳng định rằng một công dân Mỹ chỉ phải biết những gì khả dĩ cho phép

anh ta là một công dân tốt mà thôi. Còn ông... ông đã làm tôi trở thành một công dân

xấu.

- Làm sao ông lại còn đùa lúc này nhỉ?

- Đâu phải chuyện đùa với tôi, ông Thomson. Tôi đã biết những bí mật đáng lẽ

không có quyền được biết.

- Nếu ông không muốn nói chuyện nghiêm túc....

Tôi cẩn thận xếp các tấm ảnh lại và đẩy nó về phía Thomson:

- Ông không sợ mất đầu khi tiết lộ bí mật quốc gia ư? Ông sẽ bị buộc tội làm

phương hại đến lợi ích an ninh quốc gia. Xin lỗi. Tôi buộc phải nói với ông điều đó

với tất cả sự nghiêm túc mà tôi có.

Lời nói của tôi không có tác động gì đối với Thomson. Anh ta vẫn giữ vẻ tự tin

khiêu khích trước kia.

- Ở tất cả các nước văn minh, - anh ta nói, - chính quyền truy cứu trách nhiệm hình

sự đối với kẻ nào biết có tội ác đã gây ra mà không trình báo chỗ cần trình báo. Tôi

không muốn vị phạm luật pháp, không muốn là a tòng cho bọn tội phạm và vì thế, tôi

báo là chính quyền hiện nay ở Nhà Trắng và Lầu Năm góc đã và đang thực hiện một

tội ác lớn nhất thế kỷ - chuẩn bị cuộc chiến tranh lớn ở Việt Nam. Bằng điều đó, tôi

giật bỏ uy tín thổi phồng xây trên sự dối trá và gian xảo của chính phủ và tăng cường

an ninh chân chính cho đất nước. Những lời này tôi sẵn sàng phát biểu trước tòa án

cao nhất. Vì cái đó tôi sẵn sàng ngồi tù năm mười năm.

Lúc này tôi chẳng còn thì giờ đâu nghiên cứu tiểu sử và thế giới nội tâm của nhà

kinh doanh Thomson kia. Những sự việc ở Nhà Trắng, Lầu Năm góc đối với tôi còn

ngàn lần quan trọng hơn. Thất đức ư? Tất nhiên rồi. Nhưng hoàn cảnh sống là thế.

Bằng câu hỏi thận trọng, tôi dứt ông Thomson ra khỏi những bộc bạch bản thân và

chuyển sang điều tôi quan tâm hơn cả:

- Dĩ nhiên là ông biết rằng không chỉ Nhà Trắng mà hầu như cả thượng và hạ nghị

viện đều kiên quyết không để mặc cho Cộng sản đẩy lùi chúng ta ở Đông Nam Á?

- Thượng và hạ nghị viện không thống nhất trong vấn đề này, nhân dân Mỹ cũng

thế. Nhiều người cũng nghĩ như tôi nghĩ.

- Nhiều là khái niệm co giãn lắm. Chỉ có đa số mới là lực lượng quyết định.

- Hiện nay có lẽ đa số chưa hoàn toàn hình dung được chúng ta sẽ chui vào ngõ cụt

như thế nào, nếu chúng ta gây cuộc chiến tranh lớn ở Đông Dương. Cuộc chiến của

người Pháp với người Việt Nam đã cho thấy là không thể thẳng nổi họ. Họ có mục

đích, họ biết họ chiê ën đấu vì cái gì. Họ bảo vệ mảnh đất của họ. Chúng ta không

quen đánh nhau với du kích trên cánh đồng lúa, trong rừng sâu. Chúng ta đã quen với

nước cam, bít tết, trứng, cà phê với motel[11] , ti vi, với xe Ford, Cadillac, Chrysler.

- Chúng ta có pháo đài bay, tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, chúng ta có kinh

nghiệm chiến tranh ở Triều Tiên.

- Chính kinh nghiệm Triều Tiên chứng tỏ chúng ta sẽ không đạt được thắng lợi.

Trong khi nói chuyện với tôi, anh ta lo lắng liếc nhìn vách ngăn bằng kính của

phòng làm việc của tôi, sợ như có ai quấy rầy chúng tôi.

- Đừng lo, ông Thomson ạ, không ai vào đây, chừng nào chúng ta chưa kết thúc câu

chuyện. Ông gốc gác ở đâu nhỉ?

- Tôi sinh ra ở Boston. Bắt đầu đi học và tốt nghiệp cũng ở Boston. Rồi làm việc ở

Boston. Tổ tiên tôi đã đổ bộ lên sau chuyến đi dài ngày trên tàu "May Flower"[12] .

- Tôi đã nghĩ ông đúng là con cháu của những người Mỹ đầu tiên, dân gốc. Thật là

lạ, ông lại không thích Tổng thống đồng hương của mình.

- Tôi thích ông ta chừng nào ông ta chưa lập ra những đạo quân đao phủ kia và

chưa trở thành lãnh tụ tinh thần của bọn chúng.

- Ông muốn nói đến bọn mũ nồi xanh?

- Vâng, mũ nồi xanh ngày nay đối với nhiều dân tộc đã trở thành đồng nghĩa với sơ

mi nâu và đồng phục đen[13] .

- Ồ, không, ông Thomson, Kennedy đã đánh nhau với bọn phát xít. Ông ta thì gần

đỏ hơn là nâu hay đen.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!