Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thay đổi trong pháp lý xuất nhập cảnh tạo thuận lợi cho thu hút du lịch đối ngoại pps
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài :
Ngày nay, cùng với xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá, du lịch nói chung
và du lịch quốc tế nói riêng đã và đang trở thành một nghành dịch vụ quan trọng
,chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong GDP của mỗi quốc gia. Đây là hoạt động kinh
doanh mang lại nhiều lợi nhuận có triển vọng phát triển trong xã hội hiện đại. Những
năm trước đây, nhất là từ khi đất nước thống nhất, công ty du lịch công đoàn Việt
Nam ( VTUT Co) đã tổ chức cho công nhân viên chức và người lao động đi nghỉ
ngơi, tham qua du lịch mỗi năm một nhiều. Đi theo tuyến du lịch công đoàn, khách
du lịch có thể tham quan các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, các công trình kinh
tế, văn hoá của đất nước và trao đổi kinh nghiệm về các hoạt động công đoàn, những
kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, Công ty còn tiến hành các hoạt
động phục vụ đoàn viên và lao động du lịch ở bnước ngoài và đón khách du lịch
quốc tế vào Việt Nam theo con đường hợp tác và trao đổi du lịch.
Tuy nhiên, công tác tổ chức và phục vụ tham quan du lịch vẫn chủ yếu mang
tính kiêm nhiệm và bao cấp. Đối với phục vụ chủ yếu là công nhân viên chức, những
người lao động có thành tích trong lao động sản xuất được lựa chọn một cách công
khai và được hưởng các chế độ ưu đãi của cơ quan xí nghiệp hay ng ân sách bảo
hiễm xã hội.
Khi chuyển sang kinh doanh trong cơ chế thị trường điều này đã làm cho công
ty gặp không ít khó khăn.
Thứ nhất : Công ty chưa quen với việc tổ chức và phục vụ tham quan du lịch
với tư cách là một hoạt động kinh doanh. Vì vậy, công tác tổ chức phục vụ còn mang
tính chất trì trệ, nhất là về hệ thống nhà nghỉ và chất lượng phục vụ.
Thứ hai : nếu như trước kia, nguồn khách quốc tế đến với công ty chủ yếu là
do việc ký kết hợp đồng với các liên đoàn lao động của các nước a hội chủ nghĩa (
chủ yếu là các nước Đông Âu và Liên Xô cũ ) thì giờ đâykể từ khi Liên Xô tan rã,
nguồn khách này không còn duy trì ổn định như trước nữa, thêm vào đó việc đưa
người Việt Nam sang các nước này cũng gặp nhiều khó khăn
Thứ ba : Nhận thức được kinh doanh du lịch là một trong các hoạt động kinh
doanh mang lại hiệu quả cao vơí chi phí thấp hơn nhiều so với hiệu quả mang lại,
không ít các công ty, xí nghiệp thuộc các ngành, ban chức năng khác nhau kể cả khu
vực Nhà nước và tư nhân đã xâm nhập vào thị trường kinh doanh du lịch, khai thác
một cách tối đa những lợi thế trong lĩnh vực kinh doanh này.
Đứng trước những khó khăn trên, hoạt động kinh doanh du lịch nói chung và
kinh doanh lữ hành nói riêng của công ty du lịch công đoàn Việt Nam (nay là công ty
du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế) cần phải nhận thức lại công việc đầy triển vọng
nhưng lại đang thực hiện thiếu hiệu quả của mình. Chính vì thế, tôi đã chọn đề tài
“Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch
quốc tế tại công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế” làm chuyên đề thực tập tốt
nghiệp của mình.
2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích:
Để tiến hành nghiên cứu thực trạng, đánh giá hiệu quả của hoạt động du lịch
quốc tế của công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế (Internation Tourism and
Investment Consultancy Company – TIC) tại Hà Nội. Từ đó, đề tài đưa ra phương
hướng và giải pháp cụ thể để phát triển hoạt động du lịch quốc tế và hiệu qủa kinh
doanh du lịch, đáp ứng nhiệm vụ mà Đảng, chính phủ, Tổng liên đoàn lao động việt
Nam giao cho cũng như đáp ứng lòng mong mỏi của tập thể ban lãnh đạo công ty là
tăng lợi nhuận cho công ty, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên.
2.2. Đối tượng nghiên cứu ;
Đề tải tập trung vào phân tích vai trò, vị trí và nội dung của hoạt động du lịch
quốc tế trong công ty TIC. Các tiêu thức đánh giá hiệu quả kinh doanh và làm thế
nào để nâng cao hiệu quả kinh doanh đó.
2.3. Phạm vi nghiên cứu :
Mặc dù Công ty còn có các chi nhánh tại các tỉnh, thành phố trong cả nước
như chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh, chi nhánh tại Đà Nẵng, Nam Định, Vĩnh Phúc,
nhưng do thực tế khách quan cũng như thời gian nghiên cứu có hạn nên luận văn chỉ
đề cập trong phạm vi hoạt động của công ty TIC tại Hà Nội.
3. Phương pháp nghiên cứu :
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lê Nn trong quá trình nghiên cứu phân tích. Đề tài còn sử dụng phương
pháp so sánh, tổng hợp kết hợp với khảo sát thực tiễn hoạt động kinh doanh du lịch
quốc tế tại công ty du lịch và đầu tư quốc tế.
4. Kết cấu của chuyên đề :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình bày trong 3 chương:
Chương I : Lý luận chung về du lịch quốc tế và hiệu quả trong trong kinh doanh du
lịch quốc tế.
Chương II : Thực trạng kinh doanh du lịch quốc tế ở Công ty Du lịch và tư vấn đầu
tư quốc tế Hà nội.
Chương III : Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
du lịch quốc tế tại công ty TIC – Hà Nội.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Anh Minh và tập thể cán
bộ trong công ty Du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em
hoàn thành bài viết này!.
Chương I: Lý luận chung về du lịch quốc tế và hiệu quả trong kinh doanh du lịch
quốc tế.
I. Lý luận chung vê du lịch quốc tế.
1. Khái niệm về du lịch.
Trong những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến một sự bùng nổ của hoạt động du
lịch trên toàn cầu. Du lịch đã trở thành một nghành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc
gia và kinh tế Du lịch đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế thế giới.
Thực tế hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người. Trong thời kỳ
cổ đại Ai Cập và Hy Lạp hoạt động du lịch mang tính tự phát, đó là các cuộc hành
hương về đất thánh, các thánh địa, chùa chiền, các nhà thờ KiTô giáo. Tới thế kỷ thứ
XVII, khi các cuộc chiến tranh kết thúc thời kỳ phục hưng ở các nước châu Âu bắt
đầu, kinh tế xã hội phát triển nhanh, thông tin, bưu điện cũng như giao thông vận tải
phát triển và thúc đẩy cho lịch sử phát triển mạnh mẽ.
Thời kỳ du lịch hiện đại gắn liền với sự ra đời của các hãng lữ hành Thomas Cook.
Năm 1841 Thomas Cook đã tổ chức cho 570 người từ Leicestor đến Longshoroungh
với một mức giá trọn gói gần các dịch vụ vui chơi, ca nhạc, đồ uống... Nhưng du lịch
chỉ thực sự phổ biến cuối thế kỷ XIX và bùng nổ vào thập kỷ 60 cuối thế kỷ XX này
khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai đem lại những thành quả vô cùng
to lớn về kinh tế xã hội. Con người sống trong không gian với "bê tông" "máy tính",
tác phong công nghiệp đã quá mệt mỏi họ nảy sinh nhu cầu trở về với thiên nhiên, về
với cuội nguồn văn minh nông nghiệp hay chỉ đơn giản để nghỉ ngơi, sau một thời
gian lao động.
Như vậy, du lịch đã trở thành một hiện tượng quen thuộc trong đời sống con người
và ngày càng phát triển phong phú cả về chều rộng và chiều sâu. Vậy du lịch là gì?
Về khía niệm du lịch, trên thế giới nhiều học giả đã đưa ra các khái niệm khác nhau
đi từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau.
* Dưới góc độ khách du lịch:
- Theo nhà kinh tế học người áo Rozep Stander cho rằng khách du lịch là loại khách
đi lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thoả mãn sinh hoạt cao cấp mà
không theo đuổi mục đích kinh tế.
* Dưới góc độ nhà kinh doanh du lịch:
Du lịch được hiểu là việc sản xuất bán và trao cho khách các dịch vụ và hàng hoá
nhằm đảm bảo việc đi lại, lưu trú, ăn uống, giải trí, thông tin đem lại lợi ích kinh tế
cho quốc gia và các tổ chức kinh doanh đó.
ở Việt Nam, khái niệm du lịch được nêu trong pháp lệnh du lịch như sau:
"Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm
thoả m•n nhu cầu tham quan giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất
định"
2. Khái niệm về du lịch quốc tế:
Các định nghĩa về du lịch nói chung và du lịch quốc tế nói riêng đã và đang gặp phải
những khó khăn nhất định. Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa của nhiều tác
giả khác nhau.
Theo định của hội nghị ở Rôma do liên hiệp quốc tổ chức về các vấn đề của du lịch
quốc tế năm 1963: Khách du lịch quốc tế là những người lưu lại tạm thời ở nước
ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian 24h hoặc hơn.
Định nghĩa trên mắc phải sai lầm đó là không đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng hay
phụ thuộc giữa các ngành với nhau trong du lịch. Định nghĩa vẫn chưa giới hạn đầy
đủ đặc trưng về lĩnh vực của các hiện tượng và các mối quan hệ kinh tế du lịch (các
mối quan hệ thuộc loại nào: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá). Ngoài ra, định nghĩa
cũng bỏ sót hoạt động của các công ty giữ nhiệm vụ trung gian nhiệm vụ tổ chức du
lịch và nhiệm vụ sản xuất hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách du lịch.
Xuất phát từ những thực tế đó, chúng ta chỉ có thể nhìn nhận du lịch quốc tế như sau:
Du lịch quốc tế là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của cuộc
hành trình nằm ở các quốc gia khác nhau. ở hình thức này khách phải vượt qua biên
giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch. Từ cách nhìn nhận trên chúng ta có thể thấy
rằng du lịch quốc tế là những hình thức du lịch có dính dáng tới yếu tố nước ngoài,
điểm đi và điểm đến của hành trình ở các quốc gia khác nhau, khách du lịch sử dụng
ngoại tệ của nước mình đem tới nước du lịch để chi tiêu cho nhu cầu du lịch của
mình.
3. Phân loại du lịch quốc tế.
Du lịch quốc tế được chia làm hai loại: Du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế
bị động.
+ Du lịch quốc tế chủ động là hình thức du lịch của khách ngoại quốc đến một đất
nước nào đó, ví dụ đến Việt Nam và tiêu tiền kiếm được từ đất nước của họ.
+ Du lịch quốc tế bị động là hình thức du lịch có trong trường hợp các công dân Việt
Nam đi ra ngoài biên giới nước ta và trong chuyến đi ấy, họ tiêu tiền kiếm được ở
Việt Nam.
Xét trên phương diện kinh tế, du lịch quốc tế chủ động gần giống hoạt động xuất
khẩu vì nó làm tăng thu nhập ngoai tệ cho đất nước du lịch. Khách du lịch quốc tế
đến Việt Nam đổi ra bản tệ để chi tiêu số tiền chi tiêu ở nơi du lịch đẩy mạnh cán cân
thanh toán của Việt Nam. Đối với hình thức du lịch quốc tế bị động, loại du lịch này
tương tự như nhập khẩu hàng hoá vì nó liên quan tới chi ngoại tệ.
Xét trên phương tiện văn hoá xã hội: Khách du lịch quốc tế có cơ hội tìm hiểu các
phong tục tập quán, hệ thống văn hoá, pháp luật của nước sở tại, đồng thời chịu sự
chi phối của hệ thống chính trị, văn hoá, kinh tế cũng như pháp luật của nước đó.
Điều này có nghĩa là khi đó du lịch tại một quốc gia khác, khách du lịch phải tuân
theo qui định về luật pháp, văn hoá, xã hội, của quốc gia đó.
Nguyên tắc trao đổi văn hoá và kinh tế trên cơ sở này sẽ có ảnh hưởng tích cực tới sự
phát triển của du lịch quốc tế chủ động cũng như du lịch quốc tế bị động, tuy nhiên
mỗi đất nước tuỳ thuộc vào khả năng của mình mà có những định hướng phát triển
cho phù hợp.
4. Vai trò của du lịch quốc tế.
Ngành du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước, của vùng hoặc của
một nơi riêng biệt thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Do vậy, để nhận rõ
được vai trò của du lịch quốc tế đối với quá trình tái sản xuất xã hội cần hiểu rõ
những đạc điểm tiêu dùng du lịch. Những đặc điểm quan trong nhất là:
+ Nhu cầu tiêu dùng trong du lịch là những nhu cầu đặc biệt bao gồm: Nhu cầu hiểu
biết kho tàng văn hoá, lịch sử, nhu cầu vãn cảnh thiên nhiên, nhu cầu khám phá
những điều mới lạ.
+ Tiêu dùng du lịch thoả mãn các nhu cầu hàng hoá (thức ăn, hàng hoá mua sắm,
hàng lưu niệm...) và đặc biệt là các nhu cầu về dịch vụ nơi ở, vận chuyển hành
khách, y tế, thông tin...
+ Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hoá diễn ra đồng thời với việc sản xuất
ra chúng. Trong du lịch không phải vận chuyển dịch vụ và hàng hoá đến cho khách
và ngược lại, tự khách du lịch phải đi đến nơi có hàng hoá.
+ Việc tiêu dùng du lịch chỉ thoả mãn những nhu cầu thứ yếu đối với con người (với
ngoại tệ ở thể loại du lịch giữa khi đó du lịch có ý nghĩa sống còn đối với người
bệnh)
+ Tiêu dùng du lịch thường xảy ra theo thời.
Qua những đặc điểm tiêu dùng ở trên, ta có thể thấy vai trò của kinh doanh du lịch
quốc tế như sau:
4.1 Du lịch quốc tế tạo nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho đất nước.
Thật vậy, năm 1998, Mêhico đã thu được 7,8 tỷ USD, đứng thứ 2 về thu nhập của cả
nước, đứng thứ 14 thế giới về thu nhập từ du lịch. Ngoại tệ thu được từ du lịch quốc
tế góp phần cải thiện cán cân thanh toán của đất nước và thường được sử dụng để
mua sắm thiết bị máy móc cần thiết cho quá trình tái sản xuất xã hội. Do vậy, du lịch
quốc tế góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng thu nhập quốc dân.
4.2 Tạo điều kiện cho đất nước phát triển du lịch.
Cũng như ngoại thương, du lịch quốc tế tạo điều kiện cho đất nước phát triển du lịch,
tiết kiệm lao động xã hội khi xuất khẩu một số mặt hàng. Nhưng xuất khẩu theo
đường du lịch quốc tế có lợi hơn nhiều so với xuất khẩu ngoại thương. Trước hết,
một phần rất lớn đối tượng mua bán quốc tế là các dịch vụ (lưu trữ, bổ sung, trung
gian ... ) Do vậy, xuất khẩu của du lịch quốc tế còn là hàng ăn uống, hoa quả, rau
xanh, hàng lưu niệm. Như vậy, xuất khẩu qua du lịch quốc tế là "Xuất khẩu tại chỗ"
hàng hoá, dịch vụ, những hàng hoá không thể hay khó xuất khẩu được con đường
ngoại thương thông thường, mà nếu muốn xuất khẩu chúng thì phải đầu tư nhiều chi
phí cho việc đóng gói, bảo quản và vận chuyển mà giá cả lại thấp hơn.
Việc xuất khẩu thông qua du lịch quốc tế luôn đảm bảo thực hiên doanh thu lớn hơn
nếu cùng xuất khẩu những hàng hoá đó theo đường ngoại thương vì hàng hoá xuất
khẩu theo đường du lịch quốc tế theo giá bán lẻ còn nếu xuất khẩu hàng hoá đó bằng
con đường ngoại thương thì giá này là giá bán buôn.
Xuất khẩu thông qua du lịch quốc tế không tốn chi phí vận chuyển quốc tế, tốn ít chi
phí đóng gói và bảo quản hơn xuất khẩu ngoại thương vì nó được vận chuyển trong
phạm vị đất nước du lịch. Bên cạnh đó, xuất khẩu theo đường kinh doanh du lịch