Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tăng trưởng kinh tế : Nguồn gốc, yếu tố và xu hướng: Sách chuyên khảo / Nguyễn Ngọc Thạch
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1 | P a g e
NGUYỄN NGỌC THẠCH
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ:
NGUỒN GỐC, YẾU TỐ VÀ XU HƯỚNG
(Sách chuyên khảo)
2 | P a g e
MỤC LỤC
LỜI TỰA
CHƯƠNG I: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ – MỘT PHẠM TRÙ THEN
CHỐT CỦA KINH TẾ HỌC
1.1 Tăng trưởng kinh tế trong các quan điểm khoa học
1.2 Sự tiến hóa quan điểm về các yếu tố và nguồn gốc của tăng trưởng kinh
tế
1.2.1 Các yếu tố của tăng trưởng kinh tế
1.2.2 Nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế
1.2.3 Cơ chế tăng trưởng kinh tế
CHƯƠNG II: ĐO LƯỜNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ: HÀM COBB -
DOUGLAS, CES, VES
2.1 Tiến bộ kỹ thuật trong các mô hình tăng trưởng kinh tế
2.2 Hàm sản xuất vĩ mô
2.3 Hàm sản xuất Cobb - Douglas
2.4 Hàm sản xuất CES
2.5 Hàm Mukerji
2.6 Hàm CES phi vị tự
2.7 Hàm sản xuất VES
CHƯƠNG III: VỐN NHÂN LỰC, ĐỔI MỚI VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
3.1. Lý thuyết vốn nhân lực
3.2. Lý thuyết đổi mới
3.2.1 Lý thuyết đổi mới của Joseph Schumpeter
3.2.2 Đổi mới trong lý thuyết chu kỳ lớn của Nikolai Kondratieff
3.2.3 Lý thuyết cách mạng công nghệ và mô thức kinh tế - kỹ thuật của
Carlota Perez
CHƯƠNG IV: CÁC XU HƯỚNG PHÂN KỲ VÀ HỘI TỤ TRONG TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ THẾ GIỚI
1
3
3
25
26
38
48
61
61
62
71
76
79
79
81
95
95
103
103
107
109
117
3 | P a g e
4.1 Hội tụ và phân kỳ trong hai quan điểm so sánh giữa phương Đông và
phương Tây
4.2 Đại phân kỳ trong thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên
4.3 Các tiền đề công nghệ, cấu trúc, kinh tế - xã hội, tương quan lãnh thổ - dân
số cho phân kỳ rượt đuổi (1500-1800) và đại phân kỳ (từ thế kỷ XIX)
4.4 Liệu đã bắt đầu quá trình đại hội tụ vào cuối thế kỷ XX?
4.5 Kinh nghiệm phát triển rượt đuổi
CHƯƠNG V: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG LÝ THUYẾT KEYNES
5.1Lý thuyết Keynes: Học thuyết tăng trưởng hay học thuyết chống khủng
hoảng?
5.2 Mô hình tăng trưởng Harrod - Domar
5.2.1 Mô hình tăng trưởng Domar
5.2.2 Mô hình tăng trưởng Harrod
CHƯƠNG VI: LÝ THUYẾT TĂNG TRƯỞNG TÂN CỔ ĐIỂN
6.1 Mô hình tăng trưởng Malthus
6.2 Mô hình Solow cơ bản
6.2.1 Tích lũy vốn
6.2.2. Tăng trưởng dân số
6.2.3 Mô hình Solow mở rộng với vai trò của tiến bộ công nghệ
6.2.4 Quy tắc vàng của tích lũy vốn
6.3. Mô hình tân cổ điển với vốn nhân lực
6.4 Các mô hình tăng trưởng nội sinh
6.4.1 Mô hình AK cơ bản
6.4.2 Mô hình AK với tiết kiệm nội sinh
6.4.3 Mô hình AK mở rộng với vốn nhân lực và vốn thực thể
6.4.4 Mô hình hai khu vực của Usawa và Lucas
6.4.5 Mô hình tăng trưởng nội sinh tân cổ điển
6.5 Lý thuyết tăng trưởng mới
6.5.1 Mô hình Frankel với ngoại ứng từ tích lũy vốn
6.5.2 Mô hình học hỏi trong công việc
6.5.3 Mô hình tăng trưởng nội sinh Arrow - Romer
117
122
133
143
149
157
157
163
163
166
173
173
178
179
180
186
188
191
204
204
212
214
215
218
223
224
229
235
239
4 | P a g e
6.5.4 Mô hình tăng trưởng Schumpeter
6.5.5 Mô hình thương mại quốc tế kết hợp học hỏi trong công việc
CHƯƠNG VII: THỂ CHẾ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
7.1 Kinh tế học thể chế
7.2 Lịch sử kinh tế mới
7.3 Hiệu ứng Path Dependence
CHƯƠNG VIII: MỘT SỐ CÁCH TIẾP CẬN TRONG DỰ BÁO TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
8.1 Bayesian versus frequentist
8.2 Dự báo bằng phương pháp hồi quy phi tuyến tính Bayes
8.3 Dự báo bằng các mô hình hồi quy frequetist, Ridge và Lasso
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TỪ VIẾT TẮT
CES: Constant elasticity substitution
CNTB: Chủ nghĩa tư bản
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
241
245
245
258
267
273
273
277
284
291
5 | P a g e
CRS: Constant returns to scale
FDI: Foreign direct investment
GDP: Gross domestic product
LBD: Learning by doing
MAPE: Mean absolute percentage error
MCMC: Markov Chain Monte Carlo
MPL: Marginal productivity of labor
MPK: Marginal productivity of capital
OECD: Organization for Economic Cooperation and Development
R&D: Research and development
RMSE: Root mean square error
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
TFP: Total factor productivity
TTKT: Tăng trưởng kinh tế
VES: Variable elasticity substitution
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
6 | P a g e
LỜI TỰA
Tăng trưởng kinh tế là một trong những chủ đề kinh tế quan trọng nhất dưới góc
độ lý thuyết và thực tiễn. Sở dĩ phát biểu vậy là vì sự chênh lệch về tốc độ tăng trưởng
thu nhập giữa các quốc gia hay khu vực có hệ quả rất lớn trong dài hạn. Một khoảng
cách dù không đáng kể trong tỷ lệ tăng trưởng được duy trì trong nhiều thập kỷ sẽ dẫn
đến một mức chênh lệch lớn về thu nhập bình quân đầu người giữa hai quốc gia.
Chính vì vậy, kết quả cuối cùng của tăng trưởng kinh tế là phát triển kinh tế. Đó là lý
do tại sao chủ đề tăng trưởng được nhiều học giả quan tâm suốt nhiều thế kỷ. Các mô
hình và lý thuyết tăng trưởng xem xét các yếu tố của tăng trưởng kinh tế nhưng đa
phần chúng không phân biệt nguồn gốc với yếu tố của tăng trưởng. Bên cạnh đó, các
xu hướng tăng trưởng trong kinh tế toàn cầu như phân kỳ và hội tụ thường chỉ được
phân tích dưới dạng động thái của vài chỉ tiêu thu nhập hay số lượng phát minh, sáng
chế, trong khi các nguyên nhân đằng sau những động thái đó không được phân tích
một cách thấu đáo. Nghiên cứu này sử dụng cách tiếp cận chức năng và cách tiếp cận
nhân quả phân tích quan điểm của các trường phái tăng trưởng khác nhau để phân biệt
giữa yếu tố, nguồn gốc và các xu hướng của tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu được cấu
trúc thành 8 chương. Chương I nghiên cứu các yếu tố và nguồn gốc tăng trưởng kinh
tế dưới nhiều góc độ phương pháp và lý thuyết. Các dạng hàm sản xuất phổ biến như
Cobb - Douglas, CES và VES để đo lường tăng trưởng được giới thiệu trong chương
II. Chương III phân tích hai phạm trù then chốt của lý thuyết tăng trưởng hiện đại là
vốn nhân lực và đổi mới, hai nhân tố quyết định của tiến bộ khoa học - công nghệ.
Các xu hướng đại phân kỳ và đại hội tụ trong tăng trưởng kinh tế cũng như một số
kinh nghiệm phát triển rượt đuổi được phân tích trong chương IV. Lý thuyết của
Keynes và các mô hình tăng trưởng tân Keynes được giới thiệu trong chương V.
Chương VI trình bày các mô hình tăng trưởng tân cổ điển, đi từ Thomas Malthus đến
cho đến Paul Romer. Trong các mô hình đó, vai trò không thể thiếu của lao động, vốn
thực thể, vốn nhân lực và khoa học - công nghệ được nhấn mạnh. Nếu các mô hình
Keynes và tân cổ điển đề cao vốn thực thể đối với tăng trưởng kinh tế thì các mô hình
tăng trưởng nội sinh tập trung vào vai trò của vốn nhân lực và tiến bộ khoa học – công
nghệ. Tuy nhiên, trường phái thể chế hiện đại quan niệm rằng thể chế mới chính là
7 | P a g e
nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Vấn đề này được phân tích trong chương VII.
Chương VIII sử dụng hồi quy phi tuyến tính Bayes và các mô hình hồi quy tuyến tính
OLS, Ridge và Lasso để dự báo trung hạn tăng trưởng GDP thực của Việt Nam.
Tăng trưởng kinh tế là một hiện tượng phức tạp và đa diện nên nghiên cứu này
không tránh khỏi những hạn chế. Mọi ý kiến góp ý xin gửi đến hòm thư:
Tác giả trân thành cám ơn!
Tác giả
Nguyễn Ngọc Thạch
8 | P a g e
CHƯƠNG I
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ –
MỘT PHẠM TRÙ THEN CHỐT CỦA KINH TẾ HỌC
1.1. Tăng trưởng kinh tế trong các quan điểm khoa học
Các nhà kinh tế và triết học của mọi thời đại đều quan tâm đến nguyên nhân của
giàu và nghèo, tốc độ và chất lượng của động thái kinh tế. Trong lĩnh vực nhận thức
này, những vấn đề về nguồn gốc, yếu tố, cơ chế và xu hướng của TTKT là những mối
quan tâm khoa học lớn.
Dưới góc độ thống kê kinh tế, TTKT là một trong những chỉ số tổng hợp phản ánh
động thái của một nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, ý nghĩa của TTKT lớn hơn phạm
vi các tính toán thống kê rất nhiều. Chính là TTKT thể hiện những thay đổi trong cấu
phần vật chất cũng như cấu phần xã hội của phúc lợi loài người trong quá trình phát
triển. TTKT kết hợp trong một thể thống nhất sản xuất xã hội, tích lũy và tiêu dùng cá
nhân. Một mặt, TTKT khắc họa mức tiêu hao lao động xã hội và năng suất lao động,
còn mặt khác, sự tăng trưởng phúc lợi của cá nhân và sự giàu có xã hội.
Bởi vì có một vị trí khoa học đặc biệt và tầm quan trọng hàng đầu trong hoạt động
thực tiễn, lý thuyết TTKT đã tạo những tiền đề trong các thế kỷ trước thập niên 1930
và đạt được sự phát triển mạnh mẽ như một lý thuyết độc lập có tầm ảnh hưởng sâu
rộng nhất trong kinh tế học sau khi hệ thống lý thuyết kinh tế vĩ mô của John Maynard
Keynes ra đời.
Phân tích sự tiến hóa của lý thuyết TTKT, nhà nghiên cứu Mỹ nổi tiếng Ben
Seligman (1990) phát biểu rằng hoàn toàn rõ ràng TTKT là một hiện tượng rất phức
tạp. Một lý thuyết TTKT thỏa mãn phải đưa vào phân tích các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, định chế chính trị, pháp luật cũng như nhiều yếu tố tâm lý và xã hội. Thiết lập
một lý thuyết bao trùm như vậy là một nhiệm vụ gần như bất khả thi (Seligman,
1990). Nhận định này được khẳng định trong thực tiễn nghiên cứu khoa học của
những nhà lý luận kinh tế không đặt cho mình mục tiêu xây dựng một lý thuyết TTKT
9 | P a g e
phổ quát. Bởi vậy, mỗi lý thuyết của họ theo cách này hay khác tập trung vào một hay
vài mối quan hệ trọng yếu của TTKT.
Tính phức tạp và đa diện của hiện tượng TTKT đã gây nên nhiều quan điểm bất
đồng ngay ở giai đoạn xác định phạm trù TTKT. Nhiều cách tiếp cận khác nhau trong
việc xác định bản chất của TTKT đã xuất hiện. Tuy nhiên, có thể nhận ra hai cách tiếp
cận chính yếu. Đó là cách tiếp cận chức năng (hay mô tả) và cách tiếp cận nhân quả
(hay tái sản xuất).
Cách tiếp cận chức năng và tiếp cận nhân quả trong nghiên cứu kinh tế
Trước khi so sánh hai cách tiếp cận nêu trên trong nghiên cứu TTKT, cần tìm hiểu
hai quan điểm phương pháp luận này trong nghiên cứu kinh tế nói chung.
Tồn tại hai quan điểm phương pháp luận trong nghiên cứu hiện thực kinh tế: quan
điểm suy diễn hay phổ quát và quan điểm quy nạp hay kinh nghiệm (dựa trên kinh
nghiệm). Cách tiếp cận suy diễn khẳng định tính phổ quát của các quy luật kinh tế
được rút ra bằng con đường suy diễn dựa trên những tiền đề ban đầu. Trong khuôn
khổ cách tiếp cận này, phép ẩn dụ từ các khoa học tự nhiên thường được sử dụng
(chẳng hạn, ẩn dụ trạng thái “cân bằng” từ vật lý). Cách tiếp cận này được sử dụng
phổ biển bởi các trường phái trọng nông, kinh tế chính trị cổ điển và kinh tế học tân cổ
điển. Trong khi đó, cách tiếp cận thứ hai dựa trên kinh nghiệm, được xây dựng từ dưới
lên bởi vì các tổng hợp lý luận được tạo nên trong quá trình giải quyết những vấn đề
thực tiễn của nền kinh tế. Thoạt đầu, tồn tại các chính sách rồi lý thuyết được kết tinh
từ đó. Cách tiếp cận này sử dụng những ẩn dụ từ sinh học, chứ không phải vật lý. Các
trường phái trọng thương, lịch sử, thể chế Mỹ (chẳng hạn, John Commons và Wesley
Mitchell), Keynesian và tự do Đức (German liberalism) vận dụng chủ yếu cách tiếp
cận này. Nếu cách tiếp cận thứ nhất có điểm đặc trưng là chú trọng vấn đề cân bằng và
trao đổi thì sản xuất và công nghệ nằm trong tâm điểm của cách tiếp cận thứ hai. Nếu
cách tiếp cận thứ nhất không có hệ thống phân loại (tức là một sản phẩm, một lao
động, một máy móc, một đất đai đồng chất) thì hệ thống nhiều tầng nấc đặc trưng cho
cách tiếp cận thứ hai. Cách tiếp cận thứ nhất nhìn nền kinh tế như một hệ thống tĩnh,
trong khi vấn đề phát triển (động thái) là trọng tâm của cách tiếp cận sau.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường phái tư tưởng kinh tế nào cũng được liệt vào
chỉ một trong hai cách tiếp cận trên. Chẳng hạn, hệ thống lý thuyết của Karl Marx mặc
10 | P a g e
dù gần hơn với cách tiếp cận thứ nhất nhưng lại khác xa với phương pháp luận của
Adam Smith và David Ricardo.
Bên cạnh đó, phương pháp luận còn được phân loại theo tính nhân quả và tính
chức năng. Theo đó, có thể phân biệt hai cách tiếp cận cơ bản khác nhau là nhân quả
(hay tái sản xuất) và chức năng (hay mô tả). Về bản chất, hai cách tiếp cận này đều
thuộc quan điểm phổ quát. Chúng đồng tồn tại ngay từ thời điểm hình thành khoa học
kinh tế nhưng phát triển trong khuôn khổ các trường phái tư tưởng kinh tế khác nhau.
Marx đi xa hơn các nhà kinh tế chính trị cổ điển như Smith và Ricardo, làm giàu cách
tiếp cận nhân quả khi giải thích nguyên nhân sự giàu có của các quốc gia TBCN.
Trong khi đó cách tiếp cận chức năng bó hẹp trong khuôn khổ kinh tế học, không đi
sâu vào bản chất của sự giàu có mà tập trung mô tả sự vận hành của nền kinh tế và kết
quả tạo ra những bức tranh tĩnh của hiện thực. Cách tiếp cận nhân quả có nguồn gốc
từ học thuyết tái sản xuất của Marx. Vào giữa thế kỷ XIX, dựa trên các phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Marx phân tích nguồn gốc nội tại, có tính
bản chất của quá trình phát triển xã hội, quá trình sản xuất giá trị thặng dư và phương
thức sản xuất TBCN nói chung. Ông xây dựng lý thuyết tái sản xuất mở rộng với hệ
thống những khái niệm và phạm trù cho phép mô tả các quá trình sản xuất xã hội. Tái
sản xuất xã hội là quá trình sản xuất xã hội được lập lại không ngừng, quá trình tái sản
xuất lực lượng sản xuất và các quan hệ sản xuất. Trong bộ “Tư bản” (Marx, 1990),
Marx phân biệt tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất giản đơn là
“…sự lập lại đơn giản quá trình sản xuất trong một quy mô không đổi” (Marx, 1990),
tức là quá trình sản xuất xã hội tạo ra các sản phẩm vật chất và dịch vụ được lập lại
trong quy mô không đổi. Trong điều kiện tái sản xuất giản đơn, sản phẩm thặng dư
chuyển thành thu nhập chỉ để phục vụ tiêu dùng của nhà tư bản. Còn nếu thu nhập
được sử dụng để mua thêm nguồn lực sản xuất là lao động, sẽ tái tạo quá trình sản
xuất tiếp theo ở quy mô tăng lên và chất lượng khác đi, tức là để tích lũy tư bản thì đó
là tái sản xuất mở rộng. Theo Marx, quá trình sử dụng giá trị thặng dư trong vai trò tư
bản hay chuyển đổi ngược lại giá trị thặng dư thành tư bản được gọi là tích lũy tư bản.
Quan điểm nhân quả đòi hỏi phải nhìn nhận nền kinh tế như một hệ thống phức
tạp, đa cấp được phản ánh dưới dạng một hệ thống lý thuyết có nhiều cấp độ phạm trù
và mối quan hệ giữa chúng thể hiện các mối quan hệ kinh tế được phân chia thành các
11 | P a g e
quan hệ sơ khởi, phái sinh và trọng yếu, phân biệt bản chất với hình thức, nêu bật
nhân tố gen (gene) của hệ thống kinh tế. Quan điểm này được sử dụng trong các tập
của bộ Tư bản. Phép biện chứng là phương pháp luận chủ đạo của cách tiếp cận này
nên ưu điểm của học thuyết Marx là cách tiếp cận nghiên cứu dựa vào việc chỉ ra nhân
tố gen quyết định “chương trình” phát triển của hệ thống kinh tế.
Tuy vậy, hai cách tiếp cận trên phát triển không đồng đều trong thế kỷ XX. Cách
tiếp cận nhân quả không tiếp tục phát triển, dậm chân tại chỗ, chỉ lưu giữ những thành
tựu mà Marx đã đạt được trong thế kỷ trước. Hơn nữa, khác với Marx, những người
kế thừa ông không sử dụng cách tiếp cận này để giải thích những mối quan hệ thực
nghiệm do kinh tế học phát hiện. Học thuyết marxism được phương Tây phát triển
như một ngành triết học xã hội hơn là một ngành kinh tế hẹp, nó trở thành dòng phụ vì
không thể đưa ra sự giải thích hệ thống về bản chất của nền kinh tế hiện đại ngày càng
phức tạp. Trong khi đó, trường phái neo-marxism chuyển thành tương lai học (cụ thể
là lý thuyết xã hội hậu công nghiệp) nhưng các lý thuyết này thiên về xã hội hơn là
kinh tế.
Cách tiếp cận chức năng thể hiện rõ nét hơn. Nó phát triển rất mạnh trong thời kỳ
cách mạng cận biên vào cuối thế kỷ XIX tương tự như cuộc cách mạng Galile hay
Newton trong phương pháp vật lý. Nếu nền tảng của cách tiếp cận nhân quả là phép
biện chứng thì cách tiếp cận chức năng dựa trên triết học thực chứng và lô gic hình
thức. Theo cách tiếp cận thứ hai, các hiện tượng kinh tế là đồng chất (homogeneous)
và không được rút ra từ hạt nhân gen. Khác với cách tiếp cận nhân quả, cách tiếp cận
chức năng không đặt vấn đề về “nhân tố gen” của hệ thống, các mối quan hệ sơ khởi,
phái sinh và trọng yếu nên không thể trả lời câu hỏi về “bản chất và nguyên nhân” của
các hiện tượng kinh tế bao gồm TTKT. Nhà nghiên cứu chỉ tập trung vào các mối
quan hệ định lượng với điều kiện những yếu tố khác không đổi. Việc thiết lập những
mối quan hệ định lượng này không thể dựa trên toàn bộ những mối quan hệ sản xuất
mà cần tách biệt các mối quan hệ riêng biệt, chẳng hạn, mối quan hệ giữa giá và cầu
một hàng hóa. Những mô hình tăng trưởng hiện đại, từ những mô hình đầu tiên của
Roy Harrod, Evsey Domar hay Robert Solow cho đến các mô hình muộn hơn, mô tả
bằng ngôn ngữ toán học mối quan hệ giữa tăng trưởng sản lượng (hoặc sản lượng bình
quân đầu người) và các yếu tố khả biến riêng lẻ (lao động, đầu tư, vốn thực thể, tiến
12 | P a g e
bộ kỹ thuật, vốn nhân lực,…), nhưng không thể đưa ra câu trả lời thuyết phục về bản
chất của TTKT. Tức là TTKT được hiểu là “sự kết hợp cơ học của vốn với lao động”.
Chẳng hạn, theo Edward Denison (1985), sản lượng thực của Mỹ tăng trưởng ổn định
với tốc độ trung bình 2,9%, lao động làm việc tính theo giờ 1,3% và trữ lượng vốn
2,4% trong giai đoạn 1909-1957. Theo cách tiếp cận chức năng, bất chấp các tiền đề
không khả thi, các mô hình định lượng vẫn hữu dụng cho phân tích nếu cung cấp
những dự báo phù hợp với số liệu thực nghiệm. Robert Lucas (2013) nhận định,
Solow đã xây dựng một mô hình đơn giản nhưng có tiềm tàng mở rộng rất lớn dù
những tiền đề của nó xa rời hiện thực. Quan điểm này được chia sẻ bởi Milton
Friedman (1994): Phép thử duy nhất cho phán quyết về cơ sở khoa học của giả thuyết
chỉ có thể là so sánh dự báo do nó đề xuất với hiện thực, giả thuyết bị bác bỏ nếu dự
báo trái với hiện thực, mà không cần đếm xỉa đến các tiền đề bất chấp giả thuyết được
chấp nhận hay bị bác bỏ.
Về đối tượng, trong khuôn khổ cách tiếp cận chức năng, chúng ta chỉ nhìn thấy
biên của các mối quan hệ dưới góc độ sử dụng tối ưu các nguồn lực (cấp độ vi mô).
Đối với cấp độ vĩ mô, các mối quan hệ định lượng không được thiết lập trong một thời
gian dài vì thiếu các số liệu tổng; phân tích kinh tế vĩ mô chỉ thực sự phát triển sau khi
hệ thống tài khoản quốc gia ra đời. Khác với cấp độ vi mô mà đối tượng được thể hiện
thông qua ý nghĩa của cụm từ “sử dụng tối ưu nguồn lực khan hiếm nhằm thỏa mãn
nhu cầu”, đối tượng phân tích vĩ mô được hiểu thông qua những vấn đề kinh tế vĩ mô
như TTKT, việc làm, lạm phát, sự bất ổn kinh tế và cân bằng bên ngoài mà được xem
là những lĩnh vực thể hiện các mối quan hệ kinh tế khác nhau. Như vậy, tùy thuộc vào
cấp độ phân tích, đối tượng nghiên cứu được quan điểm chức năng thể hiện theo
những cách khác nhau, trong khi đối tượng của cách tiếp cận nhân quả là như nhau, đó
là các mối quan hệ kinh tế.
Trong khuôn khổ quan điểm chức năng, nền kinh tế được nghiên cứu theo bất kỳ
trình tự nào và từ bất kỳ cấp độ nào: vĩ mô hay vi mô. Có thể lấy vài ví dụ từ các giáo
trình kinh tế học nổi tiếng không chỉ mang tính tổng hợp mà còn chứa đựng quan
điểm riêng của các tác giả về hệ thống kinh tế thị trường. McConnell & Brue (2008)
phân tích nền kinh tế thị trường từ cấp độ vĩ mô, trong khi Mankiw (1999) đi từ cấp
độ vi mô. Khác với số phận của cách tiếp cận nhân quả, cách tiếp cận chức năng nhận
13 | P a g e
được động lực phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XX là nhờ các nhà nghiên cứu kinh tế
học đưa vào hệ thống công cụ của họ những phương pháp toán và thống kê mới.
Đối tượng của cách tiếp cận nhân quả và cách tiếp cận chức năng tương đồng dù
được diễn đạt bằng các ngôn từ khác nhau. Tức là không có mâu thuẫn giữa hai cách
tiếp cận này về đối tượng. Nếu đối tượng của cách tiếp cận thứ nhất là các mối quan
hệ sản xuất thì đối tượng của kinh tế học được xem là một phần của đối tượng cách
tiếp cận nhân quả. Đối tượng của cách tiếp cận chức năng được thể hiện bằng cụm từ
“sử dụng tối ưu nguồn lực khan hiếm nhằm thoả mãn nhu cầu” cũng được xem một
cách gián tiếp là mối quan hệ sản xuất. Đó là mối quan hệ giữa những con người thực
hiện các hoạt động kinh tế khác nhau như trồng lúa, nuôi gia súc, may trang phục và
thiết kế phần mềm máy tính,… cũng như phân bổ nguồn lực cho những hoạt động này
và kết quả tổng lao động xã hội, dù thuật ngữ quan hệ sản xuất không được thể hiện ở
đây.
Tại những nước XHCN trước đây, cách tiếp cận nhân quả bị thay thế bằng quan
điểm chức năng trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch tập trung sang cơ chế
thị trường. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 lại dấy lên mối
quan tâm đối với bộ “Tư bản” và cách tư duy hệ thống đối với hiện thực mà cách tiếp
cận chức năng thống lĩnh trong kinh tế học dòng chính không có được. Trong những
năm diễn ra cuộc khủng hoảng này, nhiều nghiên cứu mang tinh thần Marxism được
công bố đã phân tích xu hướng phát triển của nền kinh tế TBCN thế giới, các nguyên
nhân gây ra khủng hoảng và những kịch bản thoát ra. Mặc dù cuộc khủng hoảng đó đã
tạo nên xung động cho sự phục hồi mạnh mẽ cách tiếp cận nhân quả nhưng không xảy
ra sự thay đổi mô thức trong kinh tế học – cách tiếp cận chức năng vẫn thống trị.
Cần lưu ý, để áp dụng hiệu quả cách tiếp cận chức năng trong phân tích kinh tế, nó
không thể giữ nguyên hình thái ban đầu, một phiên bản nghiêm ngặt, cực đoan nhất
của Leon Walras. Walras quan niệm khoa học kinh tế cần phải mô tả những sự kiện tự
nhiên, không phụ thuộc vào ý chí (hành vi) của con người, tức là chỉ sử dụng mô tả
toán học thuần túy. Cho đến nửa sau thế kỷ XX, quan điểm này của Walras vẫn được
Friedman bảo vệ khi tác giả này bày tỏ quan điểm phương pháp của mình bằng cách
dẫn định đề của Isaak Newton: “Sự kiện cần được mô tả, chứ không phải giải thích”.
Tuy nhiên, quan điểm này không thể mang đến kết quả nghiên cứu kiệt xuất nếu
14 | P a g e
không được kết hợp với cách tiếp cận tái sản xuất mà cầu nối giữa chúng là phương
pháp luận của Alfred Marshall. Không chỉ Marshall mà trong thời kỳ cách mạng cận
biên, nhiều các nhà kinh tế tân cổ điển không chia sẻ quan điểm của Walras. Theo họ,
các mối quan hệ cần được giải thích. Nhưng những biện giải không thể được rút ra
trực tiếp từ mô hình. Để giải thích được, cần sử dụng các giả thuyết khác nhau. Do đó,
hành vi con người được đưa vào đối tượng của kinh tế học. Bởi vậy, cách tiếp cận mô
tả của Marshall đã vi phạm định đề của Friedman, định đề của Newton và các phương
pháp mô tả toán học thuần túy giống như của Walras.
Như vậy, sự sẵn có hai quan điểm của Walras và Marshall trong cách tiếp cận chức
năng cho phép sử dụng kết hợp quan điểm nhân quả và quan điểm chức năng trong
phân tích. Chỉ sử dụng cách tiếp cận chức năng thuần túy rõ ràng không thể đưa
nghiên cứu vươn lên cấp độ bản chất hay mối quan hệ nhân quả vì nó bị giới hạn bởi
quan điểm cực đoan của Walras nơi mà những mối quan hệ hình thức được thiết lập
và những điều kiện trong đó các mối quan hệ này được thực hiện. Nhờ Marshall, các
giả thuyết bổ trợ xuất hiện trong quá trình xây dựng các mô hình toán mang tính công
cụ hơn là giải thích. Trong khi đó, cách tiếp cận nhân quả đi vào bản chất những hiện
tượng kinh tế, cho phép khám phá các mối quan hệ nhân quả trong hiện thực.
Bây giờ, chúng ta xem xét TTKT dưới hai góc nhìn nhân quả và chức năng.
Tăng trưởng kinh tế theo cách tiếp cận chức năng và cách tiếp cận nhân quả
Như đã trình bày trên, cách tiếp cận nhân quả xuất hiện ngay từ khi khoa học kinh
tế hình thành, cụ thể trong kinh tế chính trị cổ điển. Thomas Malthus và sau này Smith
và Ricardo là các nhà nghiên cứu đầu tiên gắn TTKT với tăng trưởng của cải. John
Stuart Mill cũng đồng quan điểm với Smith và Ricardo về các khái niệm xoay quanh
TTKT. Theo Mill, của cải là toàn bộ các sản phẩm hàm chứa giá trị trao đổi. Trong
nghiên cứu về quy luật phát triển, Mill phân biệt lý thuyết tĩnh thái thể hiện bức tranh
đơn chiều của nền kinh tế và lý thuyết động thái mô tả quá trình phát triển kinh tế dài
hạn.
Đi xa hơn các nhà kinh tế cổ điển, Marx hoàn thiện cách tiếp cận nhân quả. Tuy
nhiên, việc sử dụng thuật ngữ TTKT không đặc trưng cho cách tiếp cận này. Trong bộ
“Tư bản”, Marx không nghiên cứu trực tiếp TTKT mà phân tích quá trình tích luỹ tư
bản (tác giả sử dụng thuật ngữ “tư bản” mà Marx sử dụng) trong điều kiện tái sản xuất
15 | P a g e
giản đơn và mở rộng. Tích luỹ tư bản được xem xét ở hai khía cạnh: (i) từ phía giá trị;
và (ii) từ phía giá trị tiêu dùng. TTKT như tăng trưởng dài hạn sản lượng tiềm năng và
thu nhập thực, trong đó mức sản lượng hay thu nhập bình quân đầu người là hình thức
mà quá trình tích luỹ tư bản nhận được. Sự cần thiết mở rộng sản xuất trong điều kiện
cấu tạo hữu cơ không thay đổi của tư bản đòi hỏi nhà tư bản thuê thêm công nhân và
tăng vốn cố định (hàng đầu tư theo kinh tế học hiện đại). Hay sự thay đổi cấu tạo hữu
cơ của tư bản (chẳng hạn, tăng tỷ trọng vốn cố định và giảm tỷ trọng vốn khả biến)
cũng phản ánh những khía cạnh của TTKT (chẳng hạn, sự thay đổi tỷ lệ giữa đầu tư
và tiêu dùng). Tuy nhiên, không phải bất kỳ tích luỹ tư bản ban đầu nào cũng dẫn đến
TTKT. Ví dụ, tích luỹ tư bản ban đầu trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị
trường vào đầu thập niên 1990 tại Nga, một số nước cộng hoà Liên Xô cũ và Trung -
Đông Âu không tạo nên TTKT. Quá trình tích luỹ tư bản nhờ tập trung hoá, tích tụ
hoá cũng gắn với sự tái phân phối tài sản và sản lượng chứ không với sự gia tăng tổng
thu nhập. Như vậy, tích luỹ tư bản là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, trong
khi TTKT được xem chỉ là một hình thái của tích luỹ tư bản và hơn nữa, nó là hình
thái chủ đạo trong nền kinh tế thị trường hoạt động bình thường. Trong tập đầu tiên
của bộ “Tư bản”, Marx mô tả những điều kiện của tái sản xuất mở rộng. Trong tập thứ
hai, ông phân tích hai khu vực sản xuất và các điều kiện trao đổi sản phẩm giữa hai
khu vực này cần thiết cho các quá trình tái sản xuất giản đơn và mở rộng. Mặc dù vậy,
Marx chưa xây dựng mô hình toán học trong học thuyết của mình mà chỉ giới hạn
bằng những ví dụ đại số (dù không khó thiết lập mô hình toán dựa trên lý thuyết của
Marx). Nghiên cứu này trình bày lý thuyết tái sản xuất của Marx bằng ngôn ngữ toán
học.
Trong tái sản xuất giản đơn, toàn bộ giá trị thặng dư được tạo nên trong một năm
được tiêu dùng một cách phi sản xuất bởi nhà tư bản. Khi đó, không có sự tăng lên của
tư bản; nếu các điều kiện khác không đổi, sản xuất và lưu thông được thực hiện ở quy
mô không đổi. Còn nếu một phần giá trị thặng dư được chuyển vào tư bản mới và
thêm vào tư bản ban đầu thì quy mô sản xuất được mở rộng và xảy ra sự tăng lên của
sản lượng, và tương ứng với đó là giá trị thặng dư tăng lên. Việc chuyển một phần giá
trị thặng dư thành tư bản được gọi là tích luỹ tư bản hay tái sản sản xuất mở rộng tư
bản.