Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tâm thần học 2010
PREMIUM
Số trang
239
Kích thước
2.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1774

Tâm thần học 2010

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

TÂM THẦN HỌC 2010

***

Sưu tầm: Lê Đình Sáng

Trường Đại Học Y Khoa Hà Nội

Ngày hoàn thành : 20/4/2010

Email : [email protected]

Website : http://ykhoaviet.tk

(Đánh máy từ các tài liệu bài giảng của các trường Đại Học Y Khoa,Bệnh Viện

Bạch Mai, Bệnh Viện 108)

MỤC LỤC:

ĐẠI CƢƠNG VỀ TÂM THẦN HỌC

Rối loạn cảm giác, tri giác

RỐI LOẠN TỰ DUY

Rối loạn cảm xúc

Rối loạn hoạt động

Rối loạn trí tuệ

Rối loạn ý thức

Trầm cảm

LOẠN THẦN DO RƢỢU

TÂM THẦN PHÂN LIỆT

TRẦM CẢM 2

STRESS VÀ CÁC RỐI LOẠN LIÊN QUAN ĐẾN STRESS

RỐI LOẠN LO ÂU

CHẬM PHÁT TRIỂN TÂM THẦN

NGHIỆN RƢỢU MẠN TÍNH

ĐẠI CƢƠNG CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN THỰC TỔN

Thang đánh giá trầm cảm Beck (BDI)

Rối loạn loạn thần cấp

Rối loạn loạn thần mãn tính

Rối loạn sự thích ứng

Các rối loạn ám ảnh sợ

Rối loạn hoảng sợ

Rối loạn dạng cơ thể

Rối loạn phân ly

Các rối loạn do dùng chất ma túy

Các rối loạn do sử dụng rƣợu

CÁC RỐI LOẠN TRÍ TUỆ

Rối loạn giấc ngủ

Rối loạn hành vi

RỐI LOẠN CẢM XÚC LƢỠNG CỰC

CÁC RỐI LOẠN CẢM GIÁC - TRI GIÁC

RỐI LOẠN TRÍ NHỚ

NHÂN CÁCH

Các chất dẫn truyền thần kinh

RỐI LOẠN TÂM THẦN ÁM ẢNH

CÁC LOẠI RỐI LOẠN KHÍ SẮC

Rối loạn ăn uống

Các rối loạn chức năng tình dục ở nam giới

RỐI LOẠN CHÚ Ý

Mê sảng

CÁC RỐI LOẠN TRÍ TUỆ

Sa sút trí tuệ

TÂM LÝ LIỆU PHÁP

LIỆU PHÁP PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TÂM THẦN

LIỆU PHÁP ÂM NHẠC ĐIỀU TRỊ TÂM THẦN

Thiền là một phƣơng pháp tự chữa bệnh

Điều trị bệnh Tâm thần phân liệt tại cộng đồng

Các liệu pháp tâm lý

Các thuốc sử dụng trong thực hành tâm thần học

Thông tin tóm tắt dành cho bệnh nhân về Zoloft (Sertraline HCL)

Các thuốc an thần kinh mới

Các thuốc chống trầm cảm

Các phƣơng pháp điều trị rối loạn tâm thần

ĐIỀU TRỊ SA SÚT TRÍ TUỆ

Rối loạn trầm cảm tái diễn

Trị liệu điện ảnh (Cinema Therapy)

ĐẠI CƢƠNG VỀ TÂM THẦN HỌC

I. MỤC TIÊU VÀ ĐỐI TƢỢNG CỦA TÂM THẦN HỌC

- Sức khoẻ cho mọi người là mục tiêu lớn, mục tiêu chiến lược của tổ chức y tế thế

giới (WHO), của nhiều quốc gia phát triển và của cả ngành y tế nước ta; và cũng là

thước đo chung của mọi xã hội văn minh, nhân bản.

- Không thể chia cắt sức khoẻ thể chất với sức khoẻ tâm thần xã hội và ngày càng

phải khẳng định vai trò quan trọng của sức khoẻ tâm thần trong một nỗ lực chung để

nâng cao chất lượng sống cho mọi người trong một xã hội phát triển.

- Chính vì vậy, đối tượng của tâm thần học ngày nay không chỉ đóng khung trong

khuôn khổ bốn bức tường của bệnh viện – chỉ tập trung vào những người bệnh tâm

thần nặng như người bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn cảm xúc lưỡng cực, sa sút trí

tuệ, . . . thuộc phạm vi tâm thần học truyền thống. Mà tâm thần học hiện đại đang

phải bươn trải để phấn đấu vì sức khoẻ toàn diện cả thể chất và tâm thần – vì sự

thoả mái cho tất cả mọi người sống trong cộng đồng.

II. KHÁI NIỆM VỀ SỨC KHOẺ TÂM THẦN

Trong khi sức khoẻ về thể chất đã được dần từng bước xã hội đặt đúng vào vị trí

của nó, thì sức khoẻ tâm thần còn phải bền bỉ phấn đấu để thay đổi dần nhận thức

vẫn còn nhiều lệch lạc, nhiều mặc cảm. Vậy sức khoẻ tâm thần là gì?

Sức khoẻ tâm thần không chỉ là một trạng thái không có rối loạn hay dị tật về tâm

thần, mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái, muốn có một trạng thái

tâm thần hoàn toàn thoải mái thì cần phải có chất lượng nuôi sống tốt, có được sự

cân bằng và hoà hợp giữa các cá nhân, môi trường xung quanh và môi trường xã

hội (Nguyễn Việt –1999). Như vậy, thực chất sức khoẻ tâm thần ở cộng đồng là:

1. Một cuộc sống thật sự thoải mái.

2. Đạt được niềm tin vào giá trị bản thân, vào phẩm chất và giá trị của người khác.

3. Có khả năng ứng xử bằng cảm xúc, hành vi hợp lý trước mọi tình huống.

4. Có khả năng tạo dựng, duy trì và phát triển thoả đáng các mối quan hệ.

5. Có khả năng tự hàn gắn để duy trì cân bằng khi có các sự cố gây mất thăng

bằng, căng thẳng (stress).

(R.Jenkins; A.Culloch & C. Parker - Tổ chức y tế thế giới. Geneva - 1998)

Vậy là chăm sóc bảo vệ sức khoẻ tâm thần cho mọi người là một mục tiêu rất

cụ thể, mang tính xã hội, nhưng cũng rất cao, rất lý tưởng và phải phấn đấu liên tục

để tiến dần từng bước, cuối cùng đạt được mục tiêu “Nâng cao chất lượng cuộc

sống” của con người Việt nam.

III. NỘI DUNG CỦA TÂM THẦN HỌC

A.Tâm thần học truyền thống.

1. Tâm thần học đại cương

- Lịch sử phát triển tâm thần học.

- Dịch tễ học tâm thần.

- Triệu chứng học, hội chứng học.

- Mối liên quan giữa tâm thần học và các môn khoa học khác.

- Phân loại các bệnh, các rối loạn tâm thần

- Bệnh nguyên, bệnh sinh của một số bệnh và các rối loạn tâm thần.

- Tâm thần học xuyên văn hoá.

2. Bệnh học tâm thần

- Loạn thần thực tổn (rối loạn tâm thần liên quan các bệnh nội tiết, chấn thương,

thoái triển não: Alzheimer, Pick, . . .).

- Loạn thần nội sinh (Tâm thần phân liệt, động kinh, rối loạn cảm xúc, . . .)

- Các rối loạn tâm thần liên quan đến stress (Tâm căn, rối loạn cơ thể tâm sinh,

trạng thái phản ứng).

- Các rối loạn tâm thần do cấu tạo thể chất bất thường và sự phát triển tâm thần

bệnh lý (Nhân cách bệnh, chậm phát triển tâm thần, . . .).

- Các rối loạn tập tính hành vi ở thanh thiếu niên (Hành vi bạo lực, xâm phạm, rối

loạn sự học tập, ...).

- Rối loạn ăn uống.

- Loạn chức năng tình dục không thực tổn.

- Các rối loạn lo âu, ám ảnh sợ.

- Các rối loạn phân định giới tính.

- Lạm dụng và nghiện chất (Lạm dụng rượu, nghiện rượu, loạn thần do rượu, lạm

dụng ma tuý, nghiện ma tuý, thuốc lá, ...).

3. Các phương pháp điều trị và phục hồi chức năng tâm lý xã hội.

- Liệu pháp sinh học (Dược lí tâm thần, liệu pháp sốc điện, ...).

- Liệu pháp tâm lý (Liệu pháp tâm lý trực tiếp, gián tiếp, liệu pháp nhận thức, liệu

pháp hành vi, ...).

- Liệu pháp lao động, phục hồi chức năng tâm lý xã hội.

- Âm nhạc liệu pháp.

4. Quản lý hệ thống dịch vụ chăm sóc và tư vấn sức khoẻ tâm thần cộng đồng.

5. Giám định y pháp tâm thần

B. Tâm thần học hiện đại.

1. Tâm thần học truyền thống.

2. Tâm thần học cộng đồng.

- Vệ sinh phòng bệnh và các rối loạn tâm thần.

- Tâm thần học xã hội (Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường, đặc biệt môi trường

tâm lý xã hội và sức khoẻ tâm thần).

- Giáo dục sức khoẻ tâm thần cho gia đình, nhà trường và cộng đồng.

- Phục hồi chức năng tâm lý xã hội.

- Các hình thái hoạt động rèn luyện thể chất, thẩm mỹ.

- Các kỹ năng ứng xử, giao tiếp.

- ....

IV. PHÂN LOẠI CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN THEO BẢNG PHÂN LOẠI BỆNH

QUỐC TẾ 10 (ICD-10)

- Trước đây khi chưa có phân loại quốc tế về các bệnh và các rối loạn liên quan đến

sức khoẻ tâm thần, các trường phái tâm thần học khác nhau đều có những bảng

phân loại riêng không giống nhau, đã gây khó khăn cho sự thống nhất mang tính

chất quốc gia và quốc tế trong phạm vi nhận thức và thực hành chẩn đoán tâm thần

học.

- Từ khi có bảng phân loại quốc tế 9 (1978) và 10 (1987,1992) và tập chẩn đoán

thống kê các rối loạn tâm thần DSM.III của Hội tâm thần học Hoa Kỳ (1980) và

DSM.IV (1994) về các bệnh và các rối loạn bệnh tật. Trên 300 rối loạn tâm thần và

hành vi trong 100 mục bệnh và rối loạn đã được sắp xếp một cách hệ thống và hợp

lý. Trong 10 chương phần F của bảng phân loại bệnh lần 10 (ICD.10) (Viện Sức

Khoẻ Tâm Thần đã biên dịch và phổ biến ứng dụng trong cả nước từ 1992). Các rối

loạn tâm thần và hành vi đã được mô tả kỹ lưỡng về lâm sàng để nhận dạng và các

nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán hợp lý, nhất quán đã giúp cho các nhà tâm thần học

trong nước có cùng một ngôn ngữ tâm thần học để giảng dạy, cập nhật thông tin,

giao lưu và hoà nhập thúc đẩy sự phát triển.

- Dựa trên bảng phân loại các rối loạn tâm thần và hành vi đủ để chẩn đoán xác định

và phân loại, làm cho chúng ta dễ dàng hiểu được vì sao ở Hoa Kỳ người ta đã công

bố trên 30% dân số có rối loạn tâm thần tính theo tỷ số mắc trong năm (Prevalence

of one year) và 48% dân số có rối loạn này hay rối loạn khác tính theo tỷ số mắc

phải trong cả đời (Prevalence of life) - Kessler & cộng sự - 1995. Còn theo Sumich

H.J; Andrew G; Hunt C.J - 1995, có tới 25-30% người dân australia có rối loạn tâm

thần này hay rối loạn khác trong năm; còn ở Pháp và Anh chỉ riêng trầm cảm trong

dân chúng nguy cơ mới mắc trong đời 15-25% (Incidence of life).

Và vì vậy ở nước ta, kết quả nghiên cứu gần đây của Nguyễn Đăng Dung và cộng

sự Bệnh viện tâm thần trung ương là có căn cứ. Tỷ lệ người mắc rối loạn tâm thần

này hay rối loạn tâm thần khác là xấp xỉ 15-20%.

V. NGUYÊN NHÂN CỦA CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN

Các nguyên nhân chủ yếu thường được nêu ra bao gồm:

1. Các nguyên nhân thực tổn.

- Chấn thương sọ não.

- Nhiễm khuẩn thần kinh (Viêm não, giang mai thần kinh, ...)

- Nhiễm độc thần kinh (Nghiện các chất, nhiễm độc nghề nghiệp...).

- Các bệnh mạch máu não.

- Các tổn thương não khác (U não, teo não, xơ rải rác, ...)

- Các bệnh cơ thể ảnh hưởng đến hoạt động của não.

2. Các nguyên nhân tâm lý.

Chủ yếu các stress tâm lý – xã hội tác động vào các nhân cách có đặc điểm riêng,

gây ra:

- Các rối loạn tâm căn.

- Các rối loạn liên quan đến stress.

- Các rối loạn dạng cơ thể.

3. Các nguyên nhân cấu tạo thể chất bất thường và phát triển tâm thần bệnh lý.

- Chậm phát triển tâm thần.

- Nhân cách bệnh.

4. Các nguyên nhân chưa rõ ràng (Hay các nguyên nhân nội sinh).

Do có sự kết hợp phức tạp của nhiều nguyên nhân khác nhau (Di truyền, chuyển

hoá, miễn dịch, cấu tạo thể chất, ...) nên khó xác định nguyên nhân chủ yếu. Các rối

loạn tâm thần thường gọi là nội sinh như:

- Bệnh tâm thần phân liệt.

- Rối loạn cảm xúc lưỡng cực.

- Động kinh nguyên phát.

Các rối loạn tâm thần nội sinh nói trên không may lại là những rối loạn tâm thần

nặng và thường gặp. Do nguyên nhân chưa xác định rõ ràng nên công tác dự phòng

và điều trị gặp nhiều khó khăn, rối loạn thường kéo dài và tái phát. Chương trình

phòng chống các rối loạn tâm thần nội sinh phải lâu dài, cần phân biệt các giai đoạn

khác nhau của rối loạn, mỗi giai đoạn cần kết hợp nhiều biện pháp thích hợp.

Các nguyên nhân tâm lý xã hội (Stress) có vẻ cụ thể hơn, dễ thấy hơn. Tuy nhiên,

cơ chế gây bệnh của các stress tâm lý không giản đơn như các stress vật lý trên cơ

thể. Vì stress tâm lý đập vào một nhân cách và phương thức phản ứng của nhân

cách đối với stress rất đa dạng và phức tạp. chính vì thế mà ICD-10 không gọi là rối

loạn do stress mà dè dặt gọi là rối loạn liên quan đến stress.

Như vậy trong lâm sàng, xác định nguyên nhân của một rối loạn tâm thần phải hết

sức thận trọng vì có xác định đúng nguyên nhân thì mới hy vọng điều trị có kết quả.

VI. CÁC NGUY CƠ VỀ SỨC KHOẺ TÂM THẦN HIỆN NAY

Ở nước ta trong khoảng hơn chục năm trở lại đây, nền kinh tế đã có những chuyển

biến mang tính chất bước ngoặt. Từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển

nhanh sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Đi đôi với những mặt tích cực

thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của các chỉ số thu nhập quốc nội, ổn định tốt hơn đời

sống nhân dân, giữ gìn được an ninh chính trị xã hội là điều kiện để hoà nhập với

các nước trong khu vực, ... Cũng đã xuất hiện một số mặt tiêu cực như nạn tham

nhũng, cạnh tranh không lành mạnh, quá trình đô thị hoá, sự tăng dân số cơ học tập

trung ở các thành phố lớn, mở rộng giao lưu quốc tế khó kiểm soát, sự phân hoá

giai cấp giàu nghèo, thất nghiệp là những nhân tố môi trường ảnh hưởng lớn đến

sức khoẻ tâm thần xã hội, đã làm nảy sinh và gia tăng một số bệnh lý và những rối

loạn như:

A. Các rối loạn hành vi của thanh thiếu niên (TTN): (Conductive Disorders of

Aldolescence).

- Rối loạn hành vi được xếp ở mục F.91 bảng phân loại quốc tế 10 (ICD-10) đó là

những hành vi xâm phạm, bạo lực, gây thương tích, đâm chém, càn quấy, ... do

những nguyên cớ không tương xứng ... Khi những hành vi trên tái diễn, lặp đi lặp lại

kéo dài ở TTN thì chúng thoả mãn để xếp vào mục rối loạn tập tính (Hành vi).

- Rối loạn hành vi của TTN có chiều hướng gia tăng trong những năm gần đây, thể

hiện ở tội phạm do TTN gây ra tăng, theo số liệu của Sở công an Hà nội năm 1987

trong tổng số 7824 người bị bắt vì phạm tội, TTN dưới 18 tuổi có 801 người chiếm

10,2%. Gần đây, hiện tượng bạo lực, chống đối người thi hành công vụ, nói năng

thô tục nơi công cộng, trộm cắp, cướp giật, cưỡng dâm, đua xe máy trên đường phố

đông đúc, trốn học, cờ bạc, rạch mặt trẻ em, ... luôn được các hệ thống thông tin đại

chúng cảnh báo, đã gây cho xã hội nhiều lo lắng, gây tổn thiệt cho sức khoẻ, sự

thoả mái của cộng đồng.

- Theo nghiên cứu của ngành tâm thần học Việt nam 1990, rối loạn hành vi TTN 10-

17 tuổi là 3,7%; ở thành thị cao hơn ở nông thôn, trẻ trai nhiều hơn trẻ gái. Còn theo

tài liệu nghiên cứu của Hoàng Cẩm Tú và cộng sự 1997, số trẻ em có rối loạn hành

vi ở một phường dân cư Hà nội là 6-10%.

- Không nên quá ngạc nhiên về các con số công bố trên của các nhà tâm thần học

Việt nam. ở một số nước láng giềng như Trung Quốc, rối loạn hành vi ở TTN Bắc

Kinh là 8,3%; Hàn Quốc là 14,1%; Nhật Bản 3,9%; còn ở các nước đã có nền kinh

tế thị trường phát triển như các nước Âu, Mỹ là 10-23% (Theo Krufinski và cộng sự

1977; Helzer 1988). Phạm trọng tội trong TTN Mỹ dưới 18 tuổi chiếm 22%; còn tội

xâm phạm tài sản công dân có tới 38,7% là TTN dưới 18 tuổi (Lewis D.O – 1981).

- Khi phân tích nguồn gốc rối loạn hành vi TTN ngoài vai trò sinh học, nhiều nhà tâm

thần, tâm lý và giáo dục học rất chú ý đến rối loạn hành vi do tập nhiễm (Theori de

l,aprentissage) chịu ảnh hưởng môi trường sinh trưởng của trẻ em (Gia đình, trường

học và xã hội), theo cơ chế:

+ Bắt chước hành vi xâm phạm và ngược đãi của người lớn (Cha mẹ, anh chị, thầy

cô giáo, ...) đánh đập lẫn nhau, ngược đãi trẻ em.

+ ảnh hưởng phim ảnh bạo lực và sách báo bạo dâm.

+ Do ảnh hưởng của nhóm trẻ em xấu theo quy luật liên kết, hoặc loại trừ nhóm

hoặc theo cơ chế bị ám thị bởi trẻ lớn đã phạm pháp có hành vi ranh mãnh.

+ Do phản ứng bất toại (frustration) với những bậc cha mẹ, trước căng thẳng trong

cơ chế cạnh tranh nhiều rủ ro của cơ chế thị trường.

B. Tự sát (suicide)

- Là một cấp cứu trong Y học và cũng là một cấp cứu rất đặc thù trong tâm thần học.

- Hàng năm trên thế giới có hàng trăm nghìn người chết do tự sát, có nhiều nước

chết do tự sát còn nhiều hơn chết do tai nạn giao thông (Jenkins R và cộng sự.

OMS. Geneva-1998).

- Ở nước ta chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về dịch tễ tự sát và toan

tự sát, nhưng tỷ lệ những trường hợp ngộ độc do tự sát bằng thuốc trừ sâu và các

hoá chất dạng phospho hữu cơ dùng trong nông nghiệp, công nghiệp có chiều

hướng gia tăng, lại gặp nhiều từ 15-30 tuổi và là nguyên nhân tử vong cao thứ hai

sau tai nạn giao thông (Cao Văn Tuân, 1997), còn Nguyễn Hữu Kỳ nghiên cứu 415

trường hợp toan tự sát (Tự sát không thành-parasuicide) đến cấp cứu ở bệnh viên

đa khoa TW Thừa Thiên - Huế 1996 nhận thấy 13,2% là thanh thiếu niên.

- Tìm hiểu nguyên nhân tự sát, nhiều tác giả trong nước và ngoài nước nhận thấy

như sau:

+ Sự gia tăng tiềm ẩn các rối loạn tâm thần chưa phát hiện được sớm, kịp thời như

trầm cảm (depression), lo âu (anxiety), hoảng loạn (panic disorder), nghiện ma tuý,

rối loạn hành vi, ... mà các rối loạn này dễ phát sinh trong những điều kiện kinh tế thị

trường mở cửa thiếu kiểm tra, nhất quán với nhận định của Robins 1986, Klerman

1989.

+ Nhân tố tâm lý xã hội không thuận lợi (stress):

a. Thất bại, đổ bể trong làm ăn, cạnh tranh thua lỗ.

b. Mâu thuẫn kéo dài giữa các thành viên trong gia đình không giải quyết được.

c. Cấu trúc gia đình bị đảo lộn: ly thân, ly hôn, các thành viên trong gia đình thiếu

gắn bó, không có điểm nương tựa, người thân cha hoặc mẹ nghiện rượu.

d. Cô đơn ở những người cao tuổi. Giống với nhận định của các nghiên cứu

Holinger & Offer – 1982; Weissaman – 1989.

e. Do không được quản lý tốt các phương tiện dễ dàng gây tự sát như hoá chất

trừ sâu diệt cỏ ở nước ta, súng ống bán tự do ở Hoa Kỳ (Blumenthel – 1988).

C. Lạm dụng chất (Substance abuse)

- Lạm dụng chất trong đó có lạm dụng rượu và đặc biệt nghiện ma tuý đã trở thành

hiểm hoạ của nhân loại và cũng là nguồn gốc chính của các cuộc bạo lực cục bộ và

quốc tế đang có xu hướng gia tăng ở cả các nước đang phát triển và cả các nước

phát triển, trong đó có nước ta.

- Trong cơ chế thị trường ngày nay, nghiện ma tuý ở nước ta cũng như một số nước

khác trong khu vực có một số đặc điểm nguy hại hơn như sau:

+ Đại bộ phận nghiện ma tuý là những người trẻ tuổi từ 16-35 chiếm 70-80% (Khác

với trước đây là những người già cao tuổi).

+ Nghiện các chất ma tuý nặng hơn, nguy hại hơn chủ yếu là heroin là chất bán tổng

hợp dạng thuốc phiện có thời gian bán huỷ ngắn, gây hội chứng cai nặng nề khó

đoạn tuyệt. Còn trước đây, nghiện ma tuý chủ yếu là hút thuốc phiện, nhựa của quả

cây anh túc.

+ Nghiện ma tuý ngày nay mạo hiểm hơn, đôi khi hỗn hợp về phương thức (Hút, hít,

tiêm chích, ...) cũng như việc kết hợp nhiều loại ma tuý (Heroin, seduxen,

amphetamin, cocain, LSD.25, ...).

+ Trước đây, nghiện ma tuý chỉ ở một số đồng bào vùng núi phía Bắc có trồng cây

thuốc phiện hoặc ở thành phố lớn như Sài Gòn, Nha Trang (Do quân đội Mỹ đem

vào), thì nay địa phận nghiện ma tuý đã lan rộng đến các thành phố lớn khác, các

vùng nông thôn, thị trấn trong cả nước mà trước đây được coi hầu như không có

người nghiện ma tuý.

+ Vì tiêm chích bằng kim tiêm chung nên nguy cơ lây nhiếm HIV rất cao, có những

nơi 70 – 80% người nghiện ma tuý nhiễm HIV, viêm gan B, C...

- Chính vì tính chất phức tạp của nghiện ma tuý về sức khoả tâm thần xã hội, nhân

ngày quốc tế phòng chống lạm dụng ma tuý và buôn bán ma tuý trái phép năm nay,

ông Pino Arlachi, giám đốc điều hành chương trình chống lạm dụng ma tuý đã kêu

gọi cộng đồng nhân loại hãy cùng hợp lực đẩy mạnh các hoạt động nhằm loại bỏ

mối đe doạ của hiểm hoạ ma tuý đến trật tự và sự phồn vinh, yên ổn của cộng đồng.

Vì ma tuý và bạo lực là bạn đồng hành của nhau từ góc độ người sử dụng đến khâu

sản xuất.

- Chính từ lời kêu gọi này chứng minh tính khẩn cấp của mục bệnh học tâm thần,

đặc biệt nghiện học ghi mã F.1 bảng phân loại quốc tế 10, đã ảnh hưởng đến sức

khoẻ tâm thần – xã hội và sự thoải mái của cộng đồng đến chừng mực nào, thậm

chí ảnh hưởng đến sự an ninh và an toàn chính trị- xã hội.

D. Trầm cảm (Depression)

- Trầm cảm có mối liên quan rất phức tạp với các yếu tố sinh học và còn chịu tác

động rất mạnh và trực tiếp của điều kiện kinh tế-xã hội, tâm lý không thuận lợi.

-Trong những năm gần đây đầy ắp các y văn thế giới cảnh báo về sự phổ biến của

trầm cảm trong nhân loại khoảng từ 3-5% tức khoảng 200 triệu người trên trái đất đã

lâm vào tình trạng rõ rệt bệnh lý này, nghiên cứu thể nghiệm của ngành tâm thần

học Việt Nam tại một phường và một xã thuộc đồng bằng Bắc Bộ cũng là 2-5%.

- Còn nếu nhận thức được rối loạn trầm cảm theo khái niệm tinh tế hơn bao hàm

trong đó cả trầm cảm dạng cơ thể, trầm cảm che đậy, trầm cảm tương đương thì số

người mắc chứng này (lifetime incidence) là từ 15-25% dân số (Santorius N.A và

Jablenski A.S – 1984; Andrew G và Sumich H.J & cộng sự -1985).

- Trầm cảm các loại cả về nội sinh và trầm cảm phản ứng (Post Traumatic Stress

Disorder - PTSD) với những yếu tố môi trường không thuận lợi, nhất là sự cố của

cuộc sống kinh tế- xã hội như hiện nay. Tỷ lệ dẫn đến tự sát rất cao 20-30%.

- Chính vì lẽ đó, nhiều quốc gia trong đó có Australia đã phải có chương trình của

nhà nước phòng chống các rối loạn trầm cảm.

VII. KẾT LUẬN

1. Rối loạn hành vi, tự sát, nghiện chất và trầm cảm chỉ là 4 trong hơn 300 mục đã

được ghi nhận trong bảng phân loại quốc tế 10 (ICD-10) về các rối loạn tâm thần và

hành vi. Có liên quan rất phức tạp với nhân tố tâm – sinh học về cơ chế bệnh sinh.

Nhưng nó cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của các nhân tố kinh tế – xã hội không

thuận lợi của nền kinh tế thị trường. Nhiệm vụ của ngành Tâm thần nói riêng và

ngành Y nói chung là phải cảnh báo, phát hiện và tìm ra những giải pháp ngăn chặn

dự phòng và chữa trị hợp lý nếu lấy con người với chất lượng sống cao làm mục

tiêu chiến lược.

2. Chỉ cộng dồn bốn nguy cơ rối loạn: rối loạn hành vi, tự sát, nghiện chất và trầm

cảm thì chỉ số nguy cơ số người có rối loạn tâm thần này hay rối loạn tâm thần khác

(người có vấn đề về sức khoẻ tâm thần) là rất cao trên dưới 20%. Nhiều nước còn

công bố nguy cơ này trên 30%. Chính vì vậy, Vụ sức khoẻ tâm thần và lạm dụng

chất của Tổ chức y tế thế giới 1998 đã có các khuyến cáo chính phủ và các nhà

hoạch định có chính sách ủng hộ các quốc gia vì sức khoẻ tâm thần.

3. Sự tác động nhân quả qua lại giữa sức khoẻ tâm thần và các vấn đề kinh tế – xã

hội không thuận lợi đã chứng minh mối liên quan gắn kết giữa khoa học – y học – xã

hội học. Với cách nhìn tổng quan như vậy, sự nghiệp sức khoẻ chỉ có thể thực hiện

được khi công tác y tế phải được xã hội hoá cao, phải được các nhà quản lý, các

nhà hoạt động kinh tế, và mọi công dân coi sức khoẻ, chất lượng cuộc sống là mục

tiêu của chính mình. Mặt khác ngành y tế chỉ có thể thực hiện mục tiêu sức khoẻ

cho mọi người thành đạt khi có những hiểu biết đầy đủ về môi trường ảnh hưởng

đến sức khoẻ con người không những chỉ là môi trường sinh học mà cả môi trường

xã hội.

Rối loạn cảm giác, tri giác

I. KHÁI NIỆM

Tri giác là một quá trình tâm lý, có khả năng tập hợp các đặc tính riêng lẻ của sự vật

hiện tượng, do các giác quan phản ánh, từ đó chúng ta nhận thức được sự vật và

hiện tượng một cách toàn bộ .

Tri giác là mức độ nhận thức cao hơn cảm giác, nó có tính chất tổng hợp phức tạp

chứ không phải là một tổng số đơn giản của các cảm giác. Tri giác còn tồn tại trong

óc ta dưới dạng biểu tượng, cho nên ta có thể tri giác được sự vật và hiện tượng khi

chúng không còn ở trước mắt ta nữa .

II. CÁC RỐI LOẠN CẢM GIÁC VÀ TRI GIÁC

1.Tăng cảm giác

Do ngưỡng kích thích giảm cho nên một kích thích nhẹ bệnh nhân cũng cho là quá

mạnh. Đây là triệu chứng đầu tiên của trạng thái loạn thần, ngoài ra còn gặp trong

các trạng thái suy nhược, nhiễm trùng, nhiễm độc.

2. Giảm cảm giác

Do ngưỡng kích thích tăng cao nên mọi kích thích thông thường bệnh nhân đều

cảm thấy mơ hồ, không rõ ràng. Thường gặp trong hội chứng trầm cảm, trong giai

đoạn sa sút của bệnh tâm thần phân liệt, trong rối loạn phân ly trường tri giác

thường bị thu hẹp .

3. Loạn cảm giác bản thể

Do Dupré và Camus mô tả 1907, là một trạng thái mà bệnh nhân thường xuyên có

những cảm giác đau nhức, khó chịu, lạ lùng trong cơ thể, nhất là trong các nội tạng,

tính chất và khu trú không rõ ràng như các nội tạng bị xoắn lại, xé rách hoặc phồng

to ... gặp trong hội chứng trầm cảm, nghi bệnh .

4. Ảo tưởng

Là tri giác sai lệch toàn bộ một sự vật hay một hiện tượng có thật bên ngoài, ví dụ:

thấy dây thừng thành con rắn; ảo tưởng được phân loại theo giác quan như ảo

tưởng thị giác, thính giác... ảo tưởng có thể xuất hiện ở người bình thường trong

một số trường hợp như quá trình tri giác bị trở ngại, ánh sáng không đủ, do mệt

mỏi, căng thẳng, lo âu... ảo tưởng thường xuất hiện cùng với ảo giác, hoặc hay gặp

trong chiệu chứng lú lẫn, mê mộng, trong giai đoạn hoang tưởng cấp, rối loạn phân

ly...

5. Ảo giác

Là cảm giác, tri giác như là có thật về một sự vật, một hiện tượng không hiện hữu

trong thực tại khách quan lúc bệnh nhân tri giác, hay còn gọi là tri giác không có đối

tượng. Ảo giác xuất hiện và mất đi không phụ thuộc vào ý muốn của bệnh nhân. Ảo

giác là một triệu chứng loạn thần.

Ảo giác được phân loại như sau:

- Theo hình tượng, kết cấu:

+ Ảo giác thô sơ: ảo giác chưa thành hình, chưa có kết cấu rõ ràng.

Ví dụ: Thấy một ánh hào quang, nghe một tiếng rầm rì...

+ Ảo giác phức tạp: là ảo giác có hình tượng, kết cấu rõ ràng, sinh động.

Ví dụ: Thấy người đang đến bắt mình, nghe tiếng người nói trong đầu ra lệnh cho

mình...

- Theo giác quan: ảo giác thính giác (ảo thính hay còn gọi là ảo thanh), ảo thị, ảo

khứu, ảo giác xúc giác, ảo vị và ảo giác nội tạng.

- Theo thái độ của bệnh nhân đối vối ảo giác:

+ Ảo giác thật: thường được tiếp nhận qua giác quan nên còn gọi là ảo giác tâm

thần - giác quan. Bệnh nhân cảm thấy ảo giác là có thật, tồn tại trong một không

gian nhất định, tin tưởng vào tính có thật của ảo giác, không phân biệt được với

thực tế khách quan.

+ Ảo giác giả: khác với ảo giác thật, ảo giác giả không được bệnh nhân tiếp nhận

như là một kích thích có thật từ thực tế bên ngoài, không tiếp nhận qua giác quan,

không có tính khách quan mà chúng như là do một người nào đó gây ra hoặc nghe

tư duy của mình vang thành tiếng nói trong đầu, loại ảo giác nầy có tính chi phối

hoạt động tâm thần bệnh nhân, ảo giác giả là một thành phần quan trọng của hội

chứng tâm thần tự động, thường gặp trong tâm thần phân liệt .

5.1. Các loại ảo giác thật (ảo giác tâm thần giác quan ) :

5.1.1. Ảo thính

Còn gọi là ảo thanh, rất thường gặp, nội dung đa dạng. Thường gặp là tiếng người

nói, gọi là ảo thính lời nói. Bệnh nhân nghe rõ ràng bên tai, xuất phát từ một vị trí

nhất định trong không gian với nội dung khen, chê, dọa nạt, bình phẩm bệnh nhân,

giọng nói có thể quen hoặc lạ, nam hoặc nữ, ảo giác chi phối bệnh nhân, bệnh nhân

phản ứng lại bằng cách bịt tai, lắng nghe, trả lời ảo thính. Âor thính thường gặp

trong tâm thần phân liệt, loạn thần triệu chứng, loạn thần phản ứng .

5.1.2. Ảo thị

Rất đa dạng, có thể là những vệt sáng hoặc thấy người, hoặc những hình ảnh sinh

động với kích thước bình thường hoặc lớn ra hoặc nhỏ lại. Thường gặp nhất là

trong trạng thái mê mộng lú lẫn, bệnh nhân thấy ma quỉ, Phật thánh. Bệnh nhân

phản ứng lại ảo thị bằng nhiều thái độ khác nhau như say mê nhìn ngắm nếu ảo thị

đẹp đẽ hoặc sợ hãi ngơ ngác nếu ảo thị có nội dung ghê rợn. Âor thị thường gặp

trong các trạng thái loạn thần cấp, loạn thần do nhiễm khuẩn, trong các trạng thái rối

loạn ý thức do nhiễm độc rượu .

5.1.3. Ảo vị và ảo khứu

Ít gặp hơn hai loại ảo giác trên, ảo vị và ảo khứu thường kết hợp với nhau. Bệnh

nhân ngửi thấy mùi thơm hoặc mùi khó chịu, ảo vị thường đi kèm với hoang tưởng,

bệnh nhân cảm thấy có những vị khó chịu trong miệng. Hai loại ảo giác này thường

gặp trong động kinh thùy thái dương.

5.1.4. Ảo giác xúc giác

Nội dung đa dạng như cảm giác nóng bỏng ngoài da, bị châm chích, dây quấn khắp

người ... có thể xuất hiện từng lúc hay thường xuyên, có khi kết hợp với ảo thị.

Thường gặp trong các trường hợp loạn thần do nhiễm độc, trong hoang tưởng nghi

bệnh, tâm thần phân liệt, loạn thần triệu chứng .

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!