Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu TIỂU LUẬN: Nâng cao hiệu quả chi Ngân sách Nhà nước cho Chương trình mục tiêu Quốc gia Giáo
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TIỂU LUẬN:
Nâng cao hiệu quả chi Ngân sách Nhà
nước cho Chương trình mục tiêu Quốc
gia Giáo dục & Đào tạo
LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng quát
của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 của nước ta là: Đưa đất nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá. Con đường công nghiệp hoá - hiện
đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có
những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt...". Để đạt được các mục tiêu nêu
trên, giáo dục và khoa học công nghệ có vai trò quyết định, nhu cầu phát triển giáo
dục là rất bức thiết.
Với quan điểm đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, từ trước đến nay kể
cả trong những giai đoạn đất nước còn nhiều khó khăn, Đảng và Nhà nước đã quan
tâm chú trọng đầu tư cho phát triển giáo dục & đào tạo, mức đầu tư cho giáo dục
hàng năm đều tăng lên.
Đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo vừa thực hiện yêu cầu đầu tư toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực nói chung, nhưng vừa có sự đầu tư nhằm mục tiêu giải
quyết những vẫn đề có tính chất bức xúc, trọng tâm, trọng điểm trong từng giai
đoạn nhất định; việc đầu tư theo những mục tiêu có tính chất trọng tâm trọng điểm
trong từng giai đoạn đó chính là việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia
giáo dục và đào tạo.
Trong những năm qua CTMTQG GD&ĐT đã thực hiện ở từng giai đoạn và
từ năm 2001 đến nay đã thực hiện giai đoạn 2001- 2005, hiện nay đang tiếp tục thực
hiện giai đoạn II đến năm 2010. Việc thực hiện đầu tư này rất quan trọng nhằm tạo
bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, thoát khỏi tình trạng tụt hậu so với
các nước trong khu vực, tiếp cận trình độ tiên tiến của thế giới; đổi mới mục tiêu,
nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục; phát triển đội ngũ nhà giáo; nâng
cao chất lượng đào tạo nhân lực. Với ý nghĩa quan trọng như vậy nên yêu cầu của
công tác quản lý và sử dụng nguồn ngân sách các CTMTQG GD&ĐT sao cho có
hiệu quả đạt được mục tiêu đề ra, luôn là vấn đề đặt ra đối với các cấp các ngành và
các cơ quan quản lý, người làm công tác giáo dục cũng như người làm công tác
quản lý tài chính, nhằm mục tiêu làm thế nào để việc đầu tư của Nhà nước và các
nguồn tài chính khác trong xã hội nói chung cho CTMTQG GD&ĐT được sử dụng
kịp thời, đúng mục đích, tạo ra được hiệu quả mong muốn như mục tiêu đã đề ra.
Với suy nghĩ đó, trong thời gian đi thực tập, em đã tìm hiểu và chọn đề tài:
“Nâng cao hiệu quả chi Ngân sách Nhà nước cho Chương trình mục tiêu Quốc
gia Giáo dục & Đào tạo”
Nội dung chính của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về Giáo dục & Đào tạo và chi Ngân sách
Nhà nước cho Chương trình mục tiêu Quốc gia Giáo dục & Đào tạo
Chương II: Thực trạng chi Ngân sách Nhà nước cho Chương trình mục
tiêu Quốc gia Giáo dục & Đào tạo
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả chi Ngân sách Nhà nước cho
Chương trình mục tiêu Quốc gia Giáo dục & Đào tạo
NỘI DUNG
Chương I. Những vấn đề chung về chi Ngân sách Nhà nước cho Chương trình
mục tiêu Quốc gia Giáo dục & Đào tạo
1.1. Sự cần thiết phải phát triển Giáo dục và Đào tạo
Con người với vai trò vị trí vừa là động lực quan trọng nhất của sự phát triển
xã hội, vừa là mục tiêu, là sản phẩm của xã hội và cũng đồng thời là yếu tố quan
trọng nhất của lực lượng sản xuất; mà sản phẩm trực tiếp đó chính là kết quả của
nền giáo dục đào tạo.
Mỗi thời đại và từng quốc gia có chính sách quản lý, phát triển giáo dục
riêng của mình, nhưng nét xuyên suốt lịch sử giáo dục thế giới thì Nhà nước luôn
giữ vai trò chủ thể hàng đầu và trực tiếp của nền giáo dục quốc gia. Sở dĩ Nhà nước
phải đảm bảo vai trò chủ thể phát triển giáo dục như vậy là do giáo dục có chức
năng quan trọng:
Một là chức năng giải phóng con người. Thông qua giáo dục, mỗi người đều
có cơ hội thăng tiến xã hội, thực hiện bình đẳng xã hội.
Hai là chức năng xây dựng con người mới, được hiểu theo nghĩa rộng gồm
công dân mới, những người cộng hòa mới, thế hệ mới, nhân dân mới.
Ba là chức năng góp phần tạo lập liên kết chính trị, thông qua việc giáo dục ý
thức chính trị mới cho các thế hệ công dân và đào tạo đội ngũ viên chức nhà nước
thống nhất.
Bốn là chức năng góp phần củng cố mối liên kết quốc gia nhờ vào việc giáo
dục một hệ thống chuẩn giá trị cho mọi thành viên xã hội.
Năm là chức năng tham gia kiểm soát xã hội. Giáo dục là một loại quyền lực
mềm, rất hữu hiệu đối với quá trình quản lý xã hội trong đó có kiểm soát xã hội hiểu
theo nghĩa rộng nhất của hoạt động này.
Các chức năng rất công cộng nêu trên càng khẳng định vị trí của giáo dục
như một dịch vụ công mà mọi Nhà nước hiện đại, không phân biệt thể chế chính trị,
nhất thiết phải coi việc quản lý, phát triển giáo dục là trách nhiệm tự nhiên và quyền
hạn tự thân của mình.
Lịch sử đất nước ta trải qua hàng ngàn năm dưới ách đô hộ của ngoại bang
xâm lược, bất kỳ một thế lực nào khi đặt ách đô hộ lên đất nước ta đều tìm mọi cách
hủy hoại nền văn hóa của ta, dìm nhân dân ta trong vòng dốt nát, tăm tối hòng dễ bề
cai trị, diệt tận gốc tinh thần yêu nước, khiến dân ta sống trong lầm than, không
được học hành, làm nô lệ suốt đời cho chúng.
Ngay sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, đối mặt với muôn
vàn khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra ba nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đó
là: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Người nói:” Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu”, “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp to lớn
của Đảng và nhân dân, do đó các ngành, các cấp Đảng và Chính quyền địa phương
phải thực sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này. Phải chăm sóc nhà trường về
mọi mặt, đẩy mạnh phát triển giáo dục của ta lên một bước phát triển mới…”, “ Vì
lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Tư tưởng ấy của Người đã được
Đảng và Nhà nước ta phát triển thành đường lối, chủ tương, chiến lược, chính sách
cụ thể qua từng thời kỳ.
GD&ĐT tạo ra những con người phát triển toàn diện, có năng lực nghề
nghiệp, có tinh thần ham hiểu biết, có tư duy sáng tạo, làm chủ khoa học kỹ thuật
hiện đại, có ý thức và năng lực hợp tác, có tinh thần trách nhiệm với cộng đồng xã
hội, có nếp sống lành mạnh và sức khỏe tốt… đúng với mục tiêu của nước ta trên
chặng đường xây dựng xã hội mới - Xã hội chủ nghĩa: “Con người phát triển cao về
trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
Cùng với sự phát triển nhanh của khoa học kỹ thuật, đòi hỏi phải có những
con người có trình độ hiểu biết, thực sự dám nghĩ, dám làm; Đó là kết quả của một
nền giáo dục toàn diện. Nhận thức được vai trò quan trọng của GD&ĐT là nền tảng
đưa nước ta thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, là chìa khóa mở cửa tiến
vào tương lai, Nghị quyết Trung ương IV khóa VII của BCH Trung ương Đảng đã
đề ra: “Cùng với khoa học công nghệ, GD&ĐT là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: Mở rộng quy
mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực
GD&ĐT trong 5 năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH
tạo điều kiện cho nhân dân đặc biệt là thanh niên có việc làm, khắc phục những tiêu
cực và yếu kém trong GD&ĐT”; Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định:
“GD&ĐT cùng với khoa học công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu.
Phải coi đầu tư giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo
điều kiện cho giáo dục đi trước phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã
hội”.
Đầu tư cho sự nghiệp GD&ĐT là đầu tư để phát triển kinh tế- xã hội
1.2. Chương trình mục tiêu Quốc gia Giáo dục & Đào tạo
1.2.1. Sự cần thiết của chương trình
Sau gần 15 năm đổi mới, giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu
quan trọng, nhưng còn những yếu kém, bất cập. Ngày 28 tháng 12 năm 2001 Thủ
tướng Chính phủ đã ký quyết định số 201/2001/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát
triển Giáo dục 2001- 2010”. Chiến lược xác định rõ mục tiêu, giải pháp và các bước
đi theo phương châm đa dạng hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, xây dựng một
nền giáo dục có tính thực tiễn và hiệu quả, tạo bước chuyển mạnh mẽ về chất lượng,
đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các nước phát triển trong khu vực, nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực thực hiện các mục
tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010.
Xuất phát từ nhận thức và thức tiễn nêu trên mà việc đề ra
CTMTQGGD&ĐT là hết sức cần thiết. Nó sẽ giải quyết những vấn đề khó khăn,
bất cập về cơ sơ vật chất trong trường học, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục phù
hợp với yêu cầu mới, nâng cao chất lượng trong việc học cả lý thuyết cũng như thực
hành, hỗ trợ giáo dục ở các vùng khó khăn nhằm giảm sự chênh lệch về chất lượng
giáo dục giữa các vùng miền; đầu tư tập trung xây dựng một số trường Đại học, Cao
đẳng, THCN trở thành trọng điểm... đó là những mục tiêu chủ yếu của CTMTQG
GD&ĐT trong giai đoạn từ 2001 đến 2010.
Chương trình mục tiêu quốc gia là một tập hợp các mục tiêu, nhiệm vụ và
giải pháp đồng bộ về kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ, môi trường, cơ chế,
chính sách, tổ chức để thực hiện một hoặc một số mục tiêu đã được xác định trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước trong một thời gian nhất
định.
Một chương trình mục tiêu quốc gia gồm nhiều dự án khác nhau để thực hiện
các mục tiêu của chương trình. Đối tượng quản lý và kế hoạch hóa được xác định
theo chương trình, việc đầu tư được thực hiện theo dự án.
Dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia là một tập hợp các hoạt động để
tiến hành một công việc nhất định nhằm đạt được một hay nhiều mục tiêu cụ thể đã
được định rõ trong chương trình với nguồn lực và thời hạn thực hiện được xác định.
1.2.2. Nội dung của chương trình
Thực hiện Quyết định số 71/2001/QĐ-TTg ngày 04/5/2001 và Quyết định số
26/2003/QĐ-TTg ngày 17/02/2003 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD&ĐT thực
hiện CTMTQG GD&ĐT giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005, thông qua 7 Dự án
sau đây:
Dự án 1 : “Củng cố và phát huy kết quả Phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù
chữ, thực hiện phổ cập giáo dục Trung học cơ sở”
Dự án 2: “Đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa”
Dự án 3: “Đào tạo cán bộ tin học và đưa tin học vào nhà trường, đẩy mạnh
dạy ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân”
Dự án 4: “Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng cường CSVC các trường sư
phạm”
Dự án 5: “Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người và vùng còn nhiều
khó khăn”
Dự án 6: “Tăng cường CSVC các trường học, các Trung tâm kỹ thuật tổng
hợp - Hướng nghiệp; xây dựng một số trường Đại học, THCN trọng điểm”
Dự án 7: “Tăng cường năng lực đào tạo nghề”
Về Cơ chế quản lý dự án :
- Bộ GD&ĐT quản lý, điều hành, tổng hợp chung tình hình thực hiện
CTMTQG GD&ĐT; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và các địa
phương tổ chức thực hiện các dự án số : 1, 2, 3, 4, 5, 6;
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có
liên quan và các địa phương tổ chức thực hiện dự án số 7.
1.3. Nguồn tài chính thực hiện CTMTQG GD&ĐT
Từ sau Đại hội VI (12/1986) Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh dấu sự chuyển
đổi toàn diện từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa theo
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước (hiện nay
gọi là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ) . Sự nghiệp GD&ĐT cũng được
phát triển từ một hệ thống giáo dục hầu như được Nhà nước bao cấp gần như toàn
bộ, đi học không phải đóng học phí sang quan điểm giáo dục là sự nghiệp của toàn
dân, do dân và vì dân, phát triển giáo dục là trách nhiệm và nghĩa vụ của toàn dân,
thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, khai thác tiềm năng
của nhân dân và các tổ chức kinh tế để hỗ trợ cùng NSNN tăng cường đầu tư cho
giáo dục. Từ đó ngành giáo dục có điều kiện phát triển nhanh hơn. Những năm qua
chúng ta đã huy động được nhiều nguồn vốn khác nhau bao gồm:
1.3.1. Nguồn Ngân sách Nhà nước:
- Ngân sách Nhà nước và chi Ngân sách Nhà nước: NSNN là hệ thống các
mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các tổ chức kinh tế xã hội và dân cư phát
sinh trong quá trình nhà nước động viên, phân phối của cải xã hội dưới hình thức
giá trị nhằm hình thành quĩ tiền tệ tập trung của nhà nước, trên cơ sở thỏa mãn nhu
cầu chi gắn với chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế, xã hội của Nhà nước.
NSNN nhà nước ta là một hệ thống thống nhất, bao gồm: Ngân sách Trung ương và
ngân sách các cấp chính quyền địa phương.