Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu TIỂU LUẬN: Khả năng áp dụng hệ thống Marketing dọc trong hoạt động cung ứng xi măng tại
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
II
TIỂU LUẬN:
Khả năng áp dụng hệ thống
Marketing dọc trong hoạt động cung
ứng xi măng tại Công ty vật tư kỹ
thuật xi măng
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường, muốn thành công trong hoạt động kinh doanh,
doanh nghiệp phải có các hoạt động có hiệu quả. Trong đó hoạt động phân phối nổi
lên như một công cụ Marketing quan trọng giúp doanh nghiệp tạo lập và duy trì được
lợi thế cạnh tranh dài hạn trên thị trường.
Hệ thống kênh phân phối là một hệ thống các mối quan hệ giữa các tổ chức liên
quan với nhau trong quá trình mua và bán hàng hóa. Chức năng quan trọng của kênh
Marketing là đường dẫn các nỗ lực Marketing tổng thể của doanh nghiệp tới thị
trường mục tiêu. Do vậy, có một hệ thống kênh phân phối hoạt động có hiệu quả sẽ
giúp cho doanh nghiệp có thể đạt được lợi thế cạnh tranh dài hạn vì nó đòi hỏi thời
gian, sức lực, trí tuệ và tiền của nên không dễ dàng bị các doanh nghiệp khác bắt
trước.
ở Việt nam hiện nay, các doanh nghiệp mới chỉ quan tâm đến các quan hệ kinh
doanh trực tiếp, đơn lẻ mà chưa quan tâm đến hệ thống các quan hệ kinh doanh trên
thị trường . Phần lớn các doanh nghiệp mới chỉ quản lý việc tiêu thụ sản phẩm cho
các khách hàng trực tiếp. Các doanh nghiệp chưa quan tâm và thiếu kiến thức tạo lập,
quản lý các hệ thống kênh Marketing tối ưu.
Những năm gần đây, với chính sách của Đảng và nhà nước, nền kinh tế nước ta
đang ngày càng phát triển theo hướng hiện đại. Các thành phần tham gia vào hoạt
động kinh tế trên thị trường ngày một nhiều tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ. Mỗi
doanh nghiệp đều bị cuốn vào vòng xoáy của cơ chế thị trường và phải thực sự vận
động, biến đổi và hoàn thiện mình để có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế đó.
Công ty vật tư kỹ thuật xi măng cũng vậy. Với đặc điểm là một doanh nghiệp thương
mại hoạt động chủ yếu là tiêu thụ xi măng trên thị trường do vậy hệ thống kênh phân
phối là rất quan trọng đối với công ty.
Nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống kênh phân phối nói chung và ưu
điểm của hệ thống kênh dọc nói riêng, em đã mạnh dạn chọn đề tài:"Khả năng áp
dụng hệ thống Marketing dọc trong hoạt động cung ứng xi măng tại Công ty vật
tư kỹ thuật xi măng ".
chương 1
Những vấn đề cơ bản về hệ thống kênh Marketing dọc.
I. Hệ thống Marketing dọc là gì?
1. Khái niệm.
Trong nền kinh tế ngày nay, hầu hết những người sản xuất đều không bán hàng
hoá của mình trực tiếp cho những người sử dụng cuối cùng. Xen vào giữa họ và
người tiêu dùng cuối cùng là rất nhiều các trung gian marketing thực hiện các chức
năng khác nhau với các tên gọi khác nhau như: người mua bán trung gian, đại lý
trung gian hoặc người hỗ trợ.
Quyết định về kênh Marketing là một trong số những quyết định quan trọng
nhất mà ban lãnh đạo phải thông qua. Các kênh mà công ty lựa chọn sẽ ảnh hưởng
ngay tức khắc đến các quyết định Marketing khác. Theo E.Raymond Corey:" Hệ
thống phân phối là một nguồn lực then chốt bên ngoài. Thông thường phải mất
nhiều năm mới xây dựng được và không dễ gì thay đổi được nó. Nó có tầm quan
trọng không kém gì những nguồn lực then chốt trong nội bộ, như con người và
phương tiện sản xuất, nghiên cứu, thiết kế và tiêu thụ. Nó là một cam kết lớn của
công ty đối với các công ty độc lập chuyên về phân phối và đối với những thị trường
cụ thể mà họ phục vụ. Nó cũng là một cam kết về một loạt chính sách và thông lệ
tạo nên cơ sở để xây dựng rất nhiều quan hệ lâu dài."
Gần đây, một trong những bước phát triển nhất của kênh Marketing là các hệ
thống Marketing dọc đã xuất hiện để thách thức với các kênh Markteing thông
thường. Một kênh marketing thông thường gồm có một người sản xuất, một hoặc
nhiều người bán buôn và một hay nhiều người bán lẻ. Mỗi thành viên này là một
thực thể kinh doanh riêng biệt đang tìm cách tăng tối đa lợi nhuận của mình cho dù
nó có làm giảm tối đa lợi nhuận của toàn bộ hệ thống phân phối đó. Không có thành
viên nào trong kênh có quyền kiểm soát hoàn toàn hoặc đáng kể đối với các thành
viên khác. Trái lại, hệ thống Marketing dọc (VMS: Vertical Marketing System) gồm
có người sản xuất, một hoặc nhiều người bán buôn và một hay nhiều người bán lẻ
hoạt động như một hệ thống thống nhất. Một thành viên của kênh sở hữu các thành
viên khác hay giao đặc quyền cho họ hoặc có đủ sức mạnh để đảm bảo họ phải hợp
tác với nhau. Hệ thống Marketing dọc có thể được đặt dưới sự khống chế của người
sản xuất, người bán buôn hoặc người bán lẻ.
Theo Mc Cammon đánh giá, VMS là một mạng lưới kế hoạch hoá tập trung và
quản lý có trình độ chuyên môn, được thiết kế với ý đồ đảm bảo tiết kiệm trong khai
thác và đạt mức tối đa ảnh hưởng của thị trường.
Theo giáo trình quản trị kênh Marketing - lí thuyết và thực tiễn của trường đại
học Kinh tế quốc dân: hệ thống Marketing liên kết dọc là các kênh có chương trình
trọng tâm và quản lý chuyên nghiệp được thiết kế để đạt hiệu quả phân phối và ảnh
hưởng Marketing tối đa.
Hệ thống Marketing dọc mang lại hiệu quả kinh tế theo quy mô trong phân phối
và xoá bỏ những công việc trùng lặp. VMS đã trở thành một hình thức phân phối
thịnh hành trên thị trường. Có ba loại VMS là VMS tập đoàn, VMS theo hợp đồng
và VMS được quản lý. Mỗi loại kênh Marketing liên kết dọc có một guồng máy
khác nhau để thiết lập hoặc sử dụng quyền lãnh đạo trong kênh. Trong kênh
Marketing dọc tập đoàn, sự hợp tác và giải quyết xung đột đạt được nhờ các cấp độ
phân phối trong kênh có cùng một chủ sở hữu. Trong kênh Marketing dọc hợp đồng
các nhiệm vụ và quan hệ kênh được thiết lập bằng những hợp đồng thoả thuận giữa
các thành viên với nhau. Còn trong kênh Marketing dọc được quản lý, sự lãnh đạo
thuộc về một hoặc vài thành viên có sức mạnh nhất trong kênh.
2. Các loại hình Marketing dọc (VMS).
Các hệ thống Marketing LKD là các mạng lưới được thiết lập gồm các liên kết
dọc và các phối hợp ngang. Chúng được quản lý như một hệ thống hoàn chỉnh. Sơ
đồ dưới đây mô tả các kênh Marketing LKD chủ yếu:
Sơ đồ 1: Các hệ thống kênh Marketing liên kết dọc
2.1 Kênh LKD tập đoàn.
Kênh LKD tập đoàn là sự kết hợp các giai đoạn sản xuất và phân phối trong
khuôn khổ một quyền sở hữu duy nhất. Việc nhất thể hoá dọc được ưa thích đối với
những công ty mong muốn có mức độ kiểm soát chặt chẽ các kênh. Việc nhất thể
hoá dọc có thể là nhất thể hoá dọc thuận hay nghịch. Ví dụ, người sản xuất có thể
làm chủ các trung gian ở tiếp sau (cấp bán buôn) trong kênh hoặc thậm chí cả các
cửa hàng bán lẻ. Các kênh này là kết quả của sự mở rộng một tổ chức theo chiều
dọc ngược lên phía trên từ nhà bán lẻ hoặc xuôi xuống phía dưới từ nhà sản xuất
(nhà bán lẻ có thể phát triển các cơ sở sản xuất để cung cấp hàng cho họ).
Người sở hữu và điều khiển các thành viên trong kênh có thể là nhà sản xuất,
bán buôn hay bán lẻ. Khi người sản xuất sở hữu và điều khiển các tổ chức bán buôn
hoặc các nhà bán lẻ, hệ thống kênh là kết quả của sự hoà nhập dọc xuôi chiều (hay
nhất thể hoá dọc thuận). Khi các nhà bán lẻ hay bán buôn sở hữu và quản lý các
đơn vị sản xuất của họ các kênh Marketing hoà nhập ngược xuất hiện (nhất thể hoá
Kênh LKD
tập đoàn
Chuỗi bán lẻ
tự nguyện do
nhà bán buôn
đảm bảo
Các kênh Marketing LKD
Kênh LKD
hợp đồng
Kênh LKD
được quản
lý
Kênh đặc
quyền kinh
tiêu
Các tổ chức
hợp tác bán
lẻ
dọc nghịch). Trong các hệ thống kênh tập đoàn, sự hợp tác và giải quyết xung đột
được thực hiện qua các cách thức tổ chức thông thường.
2.2.Kênh LKD hợp đồng.
Kênh LKD hợp đồng bao gồm những công ty kinh doanh độc lập ở nhiều khâu
sản xuất và phân phối khác nhau cùng thống nhất phân chia công việc phân phối
trên cơ sở các hợp đồng nhằm đạt hiệu quả kinh tế và các mục tiêu Marketing như là
đạt được mức tiết kiệm hay tiêu thụ lớn hơn so với khả năng của họ có thể đạt được
khi hoạt động riêng lẻ. Kênh LKD hợp đồng đã được phát triển chủ yếu trong những
năm gần đây và là một trong những bước phát triển đáng kể nhất trong nền kinh tế.
Hiện nay, trên thị trường thế giới VMS hợp đồng là phổ biến nhất, ước đạt khoảng
40% tổng doanh số bán lẻ.
Kênh LKD theo hợp đồng có 3 kiểu: chuỗi bán lẻ tự nguyện do người bán buôn
đảm bảo, kênh đặc quyền kinh tiêu và hợp tác xã bán lẻ.
Chuỗi cửa hàng bán lẻ được người bán buôn đảm bảo cung cấp hàng hoá:
thực chất đây là những kênh Marketing trong đó có một nhà bán buôn phát triển
quan hệ hợp đồng với các nhà bán lẻ độc lập nhỏ nhằm tiêu chuẩn hoá và phối hợp
hoạt động mua, các chương trình trưng bày hàng hoá và nỗ lực quản lý tồn kho. Với
hình thức tổ chức gồm một số lượng lớn các nhà bán lẻ độc lập, kênh này có thể đạt
được hiệu quả kinh tế theo quy mô và giảm giá theo khối lượng mua để cạnh tranh
với các cửa hàng bán lẻ có quy mô lớn hoặc các tổ chức có mạng lưới lớn.
Hợp tác xã những người bán lẻ: những người bán lẻ có thể chủ động tổ chức
ra một thực thể kinh doanh mới để thực hiện việc bán buôn và có thể là cả sản xuất
nữa. Trong kênh này, thành viên bán lẻ không phải là từng nhà bán lẻ nhỏ mà là một
tập hợp các nhà bán lẻ nằm trong một tổ chức hợp tác. Các thành viên sẽ mua hàng
qua hợp tác xã, lập kế hoạch phối hợp các hoạt động định giá và cùng lên chương
trình quảng cáo. Lợi nhuận được chia cho các thành viên theo tỷ lệ với khối lượng
hàng hoá họ đã mua. Những người bán lẻ không phải là xã viên cũng có thể mua
hàng qua hợp tác xã nhưng không được chia lợi nhuận.
Kênh đặc quyền kinh tiêu: trong kênh này chứa đựng quan hệ kinh doanh
giữa người chủ quyền (người cấp đặc quyền) và người nhận đặc quyền (đại lý đặc
quyền). Người chủ quyền sở hữu hàng hoá , dịch vụ, nhãn hiệu, uy tín, hình ảnh,
kinh nghiệm kinh doanh... Họ ký hợp đồng với những người nhận quyền, cho phép
những người này được quyền sở hữu những thứ mà người chủ quyền sở hữu trong
kinh doanh trên một khu vực thị trường nhất định. Ví dụ, người đại lý đặc quyền
được người chủ quyền giao cho quyền bán hàng hoá hay dịch vụ của họ ở một số
vùng nhất định, được dùng tên và nhãn hiệu sản phẩm của người chủ quyền trong
kinh doanh trên một khu vực thị trường.
Hình thức hiện đại hơn của phân phối đặc quyền được hiểu là sự giao quyền
kinh doanh (Business Format Franchising). Nó mang đặc điểm là một quan hệ kinh
doanh chặt chẽ giữa người chủ quyền (người giao quyền) và người nhận đặc quyền
(người được giao quyền) bao gồm không chỉ về sản phẩm, dịch vụ, nhãn hiệu
thương mại, uy tín, hình ảnh mà còn toàn bộ hoạt động kinh doanh như chiến lược
Marketing, bí quyết công nghệ, quản lý giao dịch, hướng dẫn hoạt động, quản lý
chất lượng, các tiêu chuẩn và thông tin hai chiều liên tục. Vì vậy, nó đã đưa ra một
phương pháp hoàn hảo trong phân phối hàng hoá và dịch vụ dựa vào mối quan hệ
liên tục theo hợp đồng giữa người giao quyền và người nhận quyền bao trùm tất cả
các pha trong hoạt động kinh doanh.
Việc cấp đặc quyền là một bước phát triển bán lẻ nhanh nhất và được quan tâm
nhất trong những năm gần đây. Mặc dù ý tưởng cơ bản này là một ý tưởng cũ
nhưng một số hình thức cấp đặc quyền thì hoàn toàn mới mẻ. Có 3 loại kênh đặc
quyền kinh tiêu phổ biến nhất là:
Thứ nhất, hệ thống đặc quyền kinh tiêu của hệ thống bán lẻ do nhà sản xuất bảo
trợ rất phổ biến trong ngành chế tạo ôtô. Ví dụ, Ford cấp giấy phép bán ôtô của
mình cho các đại lý. Các đại lý là người kinh doanh độc lập đồng ý chấp nhận các
điều kiện khác nhau về tiêu thụ và dịch vụ.
Thứ hai, hệ thống đặc quyền kinh tiêu của người bán buôn do nhà sản xuất bảo
trợ phổ biến trong ngành nước ngọt. Ví dụ, Coca-cola cấp giấy phép buôn bán cho
những người đóng chai (bán buôn) trên các thị trường khác nhau để những người
này mua nước cốt của họ đem về nạp ga, đóng chai rồi bán cho những người bán lẻ
trên thị trường địa phương.
Thứ ba, hệ thống đặc quyền kinh tiêu bán lẻ do công ty dịch vụ bảo trợ. ở đây,
một công ty dich vụ đứng ra tổ chức toàn bộ hệ thống để đưa ra dịch vụ của mình
đến người tiêu dùng một cách có hiệu quả.
2.3. Kênh LKD được quản lý.
Khác với hai hệ thống trên, kênh LKD được quản lý đạt được sự phối hợp ở các
giai đoạn kế tiếp trong sản xuất và phân phối không thông qua quyền sở hữu chung
hay hợp đồng ràng buộc mà bằng quy mô, năng lực và ảnh hưởng của mỗi thành
viên kênh tới các thành viên khác. Những nhà sản xuất các nhãn hiệu nổi tiếng có
thể đạt được sự ủng hộ và hợp tác kinh doanh mạnh mẽ từ những người bán buôn
trung gian hay những người bán lẻ.
Một hệ thống VMS được quản lý thực sự là một kênh marketing truyền thống
mang đặc tính là có sự quản lý giữa các tổ chức có hiệu quả. Có nghĩa là đây là một
kênh marketing mà các thành viên của nó được liên kết chặt chẽ hơn so với trường
hợp các kênh truyền thống.
Đặc điểm phân biệt VMS được quản lý với kênh truyền thống chính là ở "mức
độ" liên kết giữa các thành viên chứ không phải khác biệt về cấu trúc. Ranh giới
giữa kênh truyền thống và kênh liên kết dọc được quản lý là mức độ hiệu quả quản
lý giữa các thành viên của kênh.
Sự hình thành và phát triển của VMS là một xu thế của thế giới. Có thể nói trên
thị trường thế giới hiện nay sự cạnh tranh không phải xảy ra ở các doanh nghiệp
độc lập nữa mà là giữa các hệ thống Marketing liên kết theo chiều dọc hoàn chỉnh
được điều hành theo chương trình trung tâm để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất và ảnh
hưởng đến người mua lớn nhất. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển do trình độ
phát triển kinh tế và các quan hệ thị trường chưa cao nên số lượng các kênh VMS
còn ít và mức độ liên kết trong kênh còn nhiều hạn chế.