Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể. pptx
PREMIUM
Số trang
68
Kích thước
742.1 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
843

Tài liệu Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể. pptx

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô

thị – các trường hợp cụ thể

1 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể

GIỚI THIỆU VỀ CUỐN SÁCH

Cuốn sách dành cho những an quan tâm đến việc thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực Quản lý

môi trường đô thị (QLMTĐT). Việc thiết kế cuốn sách dựa trên giả thiết về sự nhạy cảm và sẵn

sàng lồng ghép giới những không cần qua chương trình đào tạo mà học thông qua việc quan sát,

việc mong muốn cải thiện cuộc sống của người dân trong cộng đồng, sự lắng nghe và hiểu mọi

người. Do đó, chúng tôi cũng không muốn nói rằng những ai sẽ đọc cuốn sang này sẽ ngay lập

tức sẽ trở nên nhạy cảm với các vấn đề giới. Nhưng ngược lại, nhạy cảm giới hay sự sẵn sàng

trong việc lồng ghép giới sẽ là một điều kiện tiên quyết để sử dụng cuốn sách này một cách hiệu

quả. May thay, trong việc thực hiện Dự án Vùng Đông Nam Á về Ứng dụng trong quản lý môi

trường đô thị (dự án SEA-UEMA) trong những năm qua, chúng tôi đã nhìn thấy thêm nhiều

người làm công việc thực tiễn có sự nhạy cảm giới trong lĩnh vực QLMTĐT. Do đó, chúng tôi

tin tưởng rằng cuốn sách về những trường hợp cụ thể sẽ có ích cho nhiều cá nhân và tổ chức.

Tại sao tôi nên đọc cuốn sách này?

Cuốn sách này được thiết kế cho những nhà quản lý dự án và những người làm ở cộng đồng.

Những trường hợp nghiên cứu được lựa chọn ở đây chủ yếu ở cấp độ dự án, những dự án này đã

khuyến khích việc phân tích giới trong quá trình làm việc tại thực địa và được các chuyên gia

giới tại từng quốc gia xây dựng nên. Việc xác định các vấn đề giới là bước quan trọng đầu tiên

trong việc cải thiện những hoạt động giới ở cấp độ dự án. Do đó, cuốn sang này được dành cho

việc cải thiện năng lực của người sử dụng nhằm tiến hành phân tích và xác định những vấn để

giới, để từ đó có thể thiết kế những can thiệp phù hợp. Cuốn sách này đã được xây dựng trong

nhiều năm trong quá trình thúc đẩy bình đẳng giới thông qua thực hiện dự án SEA_UEMA. Một

trong những nhu cầu quan trọng được phát hiện đó là năng lực để xác định các vấn đề giới vẫn

còn là một điểm yếu trong quá trinh đưa vấn đề giới vào những dự án liên quan đến QLMTĐT.

Tôi sẽ sử dụng cuốn sách này như thế nào?

Cuốn sách này được thiết kế cho việc tự học. Một cách lý tưởng, những nhà quản lý dự án và

những người làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực QLMTĐT nên tham gia một loạt các tập huấn

về lồng ghép giới nhằm được trang bị những kiến thức về phân tích giới. Tuy nhiên, trong thực

tế, sẽ rất khó khăn cho những người làm công tác thực tiễn để tham dự các chương trình tập huấn

thường xuyên khi có yêu cầu. Do đó, cuốn sách về các trường hợp điển cứu này được thiết kế

cho những ai không có thời gian tham dự các chương trinh tập huấn giới nhiêu lần, và cho những

người mong muốn nâng cao trinh độ kĩ năng của mình về phân tích giới.

Hướng dẫn sử dụng cuốn sách

2 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể

Cuốn sách này sẽ được bắt đầu bằng việc giải thích khung phân tích giới được xây dựng cụ thể

cho dự án SEA-UEMA. Khung này đưa ra những khái niệm và lĩnh vực quan tâm nhằm tiến

hành phân tích giới, và đây được coi như là những chỉ dẫn cho việc tiến hành phân tích giới.

Các chương tiếp theo là những trường hợp cụ thể trong đời sống từ bảy quốc gia Đông Nam Á và

được chia thành ba tiểu lĩnh vực: nước và vệ sinh, ô nhiễm không khí và quản lý rác thải. Và

cuối cùng của từng trường hợp nghiên cứu sẽ đưa ra một số câu hỏi gợi ý.

Chúng tôi cũng đề xuất rằng những người sử dụng cuốn sách này nên đọc kĩ phần khung phân

tích giới trước, sau đó xem xét các trường hợp nghiên cứu cụ thể. Những trường hợp được sắp

xếp ngẫu nhiên và không cần thiết phải đi qua các trường hợp này một cách thứ tự. Người sử

dụng có thể thoải mái lựa chọn những trường hợp liên quan đến quốc gia của mình hay lựa chọn

những trường hợp trong cùng bối cảnh lĩnh vực. Khi đã có ý tưởng cụ thể về khung phân tích,

chúng tôi cũng khuyến khích người sử dụng phân tích giới cho các trường hợp. Người sử dụng

cũng nên suy nghĩ về các câu hỏi được đưa ra ở phần cuối của các trường hợp, những câu hỏi

này nhằm giúp đỡ người sử dụng trong việc đào sâu hoặc mở rộng những phân tích.

Lời cuối

Một điều quan trọng đó là phân tích giới là một quá trình khám phá và tìm hiểu, xác định đường

đi đến với mục tiêu bình đằng giới và trao quyền cho phụ nữ. Khung khái niệm phân tích giới và

những câu hỏi hướng dẫn, tất cả đều hướng đến mục đích này. Cung cấp những câu trả lời cho

những câu hỏi này hay đưa ra một khung phân tích sẵn có sẽ làm hạn chế suy nghĩ của người sử

dụng và do đó, chúng tôi không cung cấp một câu trả lời nào.

Những người làm công tác đào tạo có thể sử dụng cuổn sách này, và có thể tự điều chỉnh độ dài

của các trường hợp nhằm làm cho chúng dễ dàng được sử dụng trong các chương trình tập huấn.

3 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể

CHƯƠNG II: KHUNG PHÂN TÍCH

GIỚI VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ Ở ĐÔNG NÁM Á – KHUNG CHO VIỆC

PHÂN TÍCH VÀ NHỮNG NHU CẦU NGHIÊN CỨU

Kyoko Kusakabe

GIỚI THIỆU

Dân số đô thị ở Đông Nam Á (ĐNA) đang gia tăng một cách nhanh chóng. Trong suốt những

năm 1980, dân số đô thị chiếm khoảng 40% tổng dân số ở Philippine. Nhưng con số này đã tăng

lên là 60% vào năm 2001. Tương tự, dân số đô thị ở Cambodia đã tăng lên gấp đôi từ 10% từ

năm 1980 đến gần 20% vào năm 2001. Sự gia tăng tương tự cũng được ghi lại ở các quốc gia

khác thuộc khu vực ĐNA. Với sự tăng nhanh về dân số, những vấn đề lien quan đến QLMTĐT

trở nên thực sự quan trọng.

Là những người lao động, người dọn dẹp cho gia đình, người mẹ và những người di cư, phụ nữ

trải qua những kinh nghiệm và sự xuống cấp của môi trường đô thị một cách sâu sắc hơn nam

giới (Momsen 2004). Sự khác biệt về giới tính, phân công lao động theo giới tính và các quan hệ

giới, tất cả đã dẫn đến những ảnh hưởng khác nhau do môi trường xuống cấp lên phụ nữ và nam

giới. Khác biệt giới cũng dẫn đến sự phân biệt đối xử trong việc phụ nữ và nam giới tiếp cận đến

các dịch vụ của đô thị. Từ đó, sẽ rất quan trọng trong việc hiểu các kinh nghiệm và nhu cầu khác

nhau của phụ nữ và nam giới trong lĩnh vực QLMTĐT.

Tuy nhiên, vẫn còn có sự hạn chế trong việc nhận thức rằng khác biệt giới và quan hệ quyền lực

dựa trên yếu tố giới đóng vai trò lớn trong QLMTĐT. Điều này biểu thị thông qua sự tham khảo

không đầy đủ về các vấn đề giới trong chính sách và chương trình QLMTĐT ở Châu Á. Tầm

quan trọng của việc đưa các khía cạnh giới cuối cùng đã được nhiều người làm chính sách và

thực địa trong lĩnh vực này nhận ra, những thống kê, thông tin và số liệu vẫn còn thiết, chỉ có rất

ít dự án nhận ra một cách đầy đủ và quan tâm những vấn đề và khó khăn trong việc đạt được

bình đẳng giới tại cộng đồng.

ĐƯA GIỚI VÀO CÁC DỰ ÁN

Nhiều dự án phát triển gặp phải những vấn đề tương tự trong việc thiếu nhận thức về giới, thiếu

năng lực cho việc phân tích giới, thiếu số liệu và thống kê để tiến hành phân tích giới v.v… Một

trong những chiến lược chính được sử dụng trong việc lồng ghép giới đó là việc tạo ra các khung

phân tích giới và bảng kê kiểm tra các vấn đề giới (Moser và Moser 2005; Levy 1992). Có một

nhu cầu thực sự từ những người thực hiện dự án trong việc học “làm thế nào” để “đưa giới” vào

dự án nhằm lồng ghép những khía cạnh giới vào dự án (Warren 2007). Các khung phân tích giới

được giả định sẽ giúp người làm dự án “đưa giới” vào dự án. Nhưng cụ thề một khung phân tích

giới là cái gì? ADB (2003) đã chỉ ra rằng một khung phân tích giới là

4 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể

“Một công cụ linh động với những mục đích cụ thể để hỗ trợ việc xây dựng và thực hiện

các chương trình và dự án làm tăng tối đa hiệu quả và sự tham gia của phụ nữ và nam

giới, và bao gồm những sắp xếp thực hiện hiệu quả các chiến lược, chính sách, can thiệp

và dự án”

Định nghĩa này đã chỉ ra rằng khung phân tích giới là một công cụ nhằm cung cấp những ý

tưởng và thông tin cụ thể cho một mục đích cụ thể của một dự án. Tuy nhiên, nhiều bàn luận về

khung phân tích giới lại chỉ ra một cách khác. Khung phân tích giới tồn tại không phải để đưa

vào dự án, mà để chỉ ra những cách nhìn khác nhau vào hiện tượng. Và mục đích cuối cùng

không phải để cho dự án hiệu quả mà là thay đổi các cách và giá trị vẫn thường được làm để đạt

được bình đẳng giới. Và như thế, Kabeer chỉ ra rằng không có một cách chính sách để “làm các

vấn đề giới” và:

Mục đích chính của khung phân tích đó là gây nên chú ý vào các quá trinh mà ở đó sự

khác biệt giới tính đã được chuyển thành sự bất bình đẳng xã hội về giới tính trong các xã

hội khác nhau (Kabeer, 1999:11).

Hai định nghĩa này từ hai phương hướng khác nhau dựa trên những giá trị khác nhau. Như

Warren (2007) đã lập luận, khung phân tích giới dựa trên những giá trị và hệ tư tưởng và không

thể hiểu được nó nếu không hiểu về những giá trị đã hướng đến việc xây dựng khung phân tích.

Tuy nhiên, khi các khung phân tích được ứng dụng tại thực địa, hai cách suy nghĩ này không cần

thiết phải được phân định rõ. Điều này tạo nên sự lạm dụng các khung phân tích về các khung

này được khuôn khổ nhằm cho phép người sử dụng hiểu về giá trị/hệ tư tưởng đằng sau nó.

Như một hướng dẫn cho hệ tư tưởng của bình đẳng giới, một khung phân tích giới nên, diễn giải

lại, Kabeer cho rằng (1999), không đặt ra một cách cứng nhắc trong việc nhìn nhận sự việc, mà

(1) giới thiệu những giá trị sẵn có trong việc kiểm chứng các cách mà sự việc được thực hiện.

Bình đẳng giới là một giá trị quan trọng, việc chia sẻ bình đẳng khối lượng công việc và đưa là

quyết định là những giá trị quan trọng v.v… và những điều này sẽ được diễn tả qua khung phân

tích giới. (2) làm cho công việc của những chuyên gia không chuyên về giới dễ dàng hơn trong

việc hiểu những điều gì cấu thành nên những vấn đề giới và nhu cầu giới tại địa điểm và lĩnh vực

cụ thể.

Một cách lý tưởng, một khung phân tích giới cần có sự linh hoạt để ứng dụng vào nhuẽng bối

cảnh khác nhau, và cụ thể để có thể có thể áp dụng được cho các câu hỏi trong các lĩnh vực.

Fong và các đồng nghiệp (1996:2) chỉ ra rằng “phân tích giới có thể giới việc đảm bảo cung cấp

các dịch vụ cho phụ nữ và nam giới mong muốn và những dịch vụ này phù hợp với điều kiện cụ

thể của họ”. Sự linh hoạt ở đây ám chỉ việc không quá lơ mơ hay không quá mang tính khái

niệm, mà điều này sẽ gây nên khó khăn cho những chuyên gia không thuộc lĩnh vực giới để tuân

thủ. Sự linh hoạt được dựa trên sự hiểu biết về những gì có thể bao gồm trong những bối cảnh

5 Bình đẳng giới trong quản lý môi trường đô thị – các trường hợp cụ thể

khác nhau trong từng khu vực. Do đó, một điều quan trọng là khung phân tích giới cần phải được

xây dựng dựa trên một bối cảnh, địa điểm và lĩnh vực cụ thể.

Do đó, chương này sẽ giới thiệu một khung phân tích giới rất cụ thể cho khu vực ĐNA, lĩnh vực

cụ thể là QLMTĐT, đặc biệt chú trọng vào những tiểu lĩnh vực: nước và vệ sinh, quản lý chất

thải rắn và ô nhiễm không khí. Để đặt ra những bối cảnh địa lý và lĩnh vực, chương này sẽ đầu

tiên trình bày tổng quát về tình trạng phụ nữ trong lĩnh vực QLMTĐT ở ĐNA từ những nghiên

cứu và thống kê hiện thời. Dựa theo đó, chương này sẽ giới thiệu một khung phân tích có thể

được sử dụng để xác định những vấn đề giới trong QLMTĐT ở ĐNA và xác định những lĩnh vực

cần có sự can thiệp của dự án.

Mặc dù không có khung phân tích giới cụ thể trong lĩnh vực QLMTĐT, nhưng có một vài khung

phân tích giới liên quan và khung phân tích này sẽ được xây dựng dựa trên những nền tảng đó.

Hướng dẫn trong phân tích về nước và vệ sinh do Wendy Wakerman xây dựng (1995) trong quá

trình ESCAP (2003) xây dựng một loạt những chỉ số giới sử dụng những thống kê kinh tế vĩ mô.

Cũng đã có những khung phân tích đã được xây dựng hoàn thiện và được ứng dụng như khung

phân tích Harvard, Moser, Khung ma trận phân tích giới, Khung trao quyền của Lơngwe, và cách

tiếp cận quan hệ xã hội của Naila Kabeer. Khung phân tích giới cho lĩnh vực QLMTĐT ở ĐNA

đã được xây dựng vì:

“Không có một tiêu chuẩn lý thuyết nào về phát triển, giới và môi trường, nhưng có

khung phân tích bối cảnh về sự phát triển, phụ nữ và môi trường phản ứng và tương tác

với nhau. Điều đó để nói rằng, quan hệ giữa phụ nữ và môi trường chỉ có thể được hiểu

thông qua phân tích thể chế, mà ở đó hai yếu tố này tương tác với nhau, nơi mà ở đó sự

phát triển diễn ra” (Zein-Elabdin, 1996, p.930).

Do đó, để cho kết quả tốt nhất, một khung phân tích tách biệt phải được xây dựng cụ thể cho

từng bối cảnh và vấn đề cụ thể. Hơn nữa, khung phân tích giới được ứng dụng tại thực địa trong

quá trình xây dựng dự án sẽ không phải lúc nào cũng do những chuyên gia giới thực hiện. Mục

đích của việc phát triển khung phân tích giới thực sự đã cho phép những chuyên gia không thuộc

lĩnh vực giới tham gia vào việc phân tích giới. Theo nghĩa này, cần thiết phải xây dựng khung

phân tích giới mà ở đó cần hoàn cảnh hoá rõ rang, thậm chí khó có thể thực hiện trong từng và

mỗi bối cảnh cụ thể.

QLMTĐT là một lĩnh vực tương đối mới. Tổng quan nghiên cứu về phụ nữ/những khía cạnh giới

và môi trường chỉ ra rằng vai trò phụ nữ, trách nhiệm và việc sử dụng nguồn lực như đất, rừng và

nước. Những nhấn mạnh về nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường thường đi đôi với tài

nguyên thiên nhiên. Levy (1992:144) chú ý “cách đơn giản nhất gắn giới và môi trường là việc

sử dụng nguồn tài nguyên của phụ nữ và nam giới”, nhận ra những hệ thống sản xuất và tiêu thụ

nơi họ đang vận hành trong những bối cảnh cụ thể”.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!