Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài chính
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Chiều Hướng Lịch Sử Của Lợi Nhuận Thu Được Từ Tài Sản
Campbell R. Harvey
Dịch Viên: Nhân Thụy
Kinh Nghiệm Tích Luỹ Từ 5 Loại Tài Sản Của Mỹ
Kinh nghiệm lịch sử về lợi nhuận có từ những loại tài sản trong nước Mỹ được liệt kê
dưới đây. Có sáu loại lợi nhuận tài sản cơ bản sau đây: lợi nhuận trái phiếu kho bạc
Mỹ1, lợi nhuận trái phiếu do chính phủ Mỹ2 phát hành, lợi nhuận trái phiếu do các
công ty cổ phần3 phát hành, lợi nhuận vốn NYSE-AMEX4, và lợi nhuận từ những cổ
phần nhỏ5. Những loại tài sản này thường mang một đặc điểm chung là "rủi ro".
Nghĩa là người ta sẽ cân nhắc trái phiếu kho bạc ít rủi ro hơn so với danh mục đầu tư
đòi hỏi ít vốn (giá thị trường nhân với số cổ phần chưa phân phối).
Một trong những vấn đề chính của tài chính là phải hiểu được mức cân bằng giữa rủi
ro và lợi nhuận. Người ta thường cho rằng hầu hết các nhà đầu tư không ưa thích gì
rủi ro cả. Điều đó nghĩa là để thu hút mọi người mua cổ phần vốn thay vì mua trái
phiếu kho bạc, thì cổ phần đó phải được trả nhiều lợi nhuận hơn (để bù lại phần rủi
ro).
Từ việc phân tích lịch sử những loại tài sản này cho ta một kết luận là vẫn tồn tại
một mối liên hệ mật thiết giữa rủi ro và lợi nhuận. Hãy chú ý xét đến các chỉ số tài
sản của các loại danh mục đầu tư này. Những chỉ số này cho thấy $1 khi được đầu tư
vào tháng 12 năm 1925 và tất cả doanh thu thu được được tái đầu tư (chưa tính
thuế) vào trong cùng một loại tài sản.
Đồ thị này cũng cho ta thấy được quá trình xảy ra lạm phát. Hãy chú ý đến thứ tự
của chúng. Những chỉ số tích luỹ tài sản diễn ra như trực giác của chúng ta về rủi ro.
Trái phiếu kho bạc chỉ cho lợi nhuận tích luỹ thấp và vốn cổ phần nhỏ nhất lại cho lợi
nhuận cao nhất.
Sự khác biệt giữa sự cao thấp này rất rõ nét. Với $1.000 đầu tư vào vốn cổ phần thì
vào năm 1995 nó là hơn $3,4 triệu trong khi đó với $1.000 đầu tư vào trái phiếu kho
bạc chỉ đựơc $12.000 thôi. Một phần nào đó, đây được xem là lãi suất kép.
Mức Độ Hoạt Động Trung Bình Của Các Loại Tài Sản Mỹ
Lợi nhuận trung bình hàng tháng và độ lệch chuẩn cho thấy được sự khác biệt giữa
các loại tài sản này, tuy không rõ nét nhưng vẫn đáng chú ý.
Dĩ nhiên là vẫn có một số đặc điểm thông thường. Như đã biết trước trong bản phân
tích tích luỹ tài sản, thì lợi nhuận hàng tháng thấp nhất là trái phiếu kho bạc và cao
nhất là danh mục đầu tư vốn cổ phần với số vốn thấp hơn. Nhưng đồ thị này vẫn
cung cấp cho ta nhiều thông tin khác.Mức độ bất định của lợi nhuận của từng loại tài
sản cũng được thể hiện trong đó (độ lệch chuẩn của lợi nhuận hàng tháng).
Ngoại trừ trái phiếu kho bạc thì mức bất định đó luôn lớn hơn mức lợi nhuận trung
bình. Còn mức bất định của lợi nhuận vốn cổ phần là rất cao. Lấy ví dụ trong trường
hợp danh mục đầu tư vốn vào S&P 500, lợi nhuận trung bình xấp xỉ 1% /tháng và
mức bất định xấp xỉ 6%. Ta thấy có một độ lệch chuẩn xung quanh giá trị trung bình
này trải dài từ -5% đến +7%. Nếu dữ liệu ở dạng thông thường, thì nó còn ảnh
hưởng đến 66% cả kết quả. Một khoảng tin cậy với hai độ lệch chuẩn sẽ là từ -11%
đến +13% rơi vào bất kỳ tháng nào. Điều này cho thấy lợi nhuận vốn cổ phần rất là
bất ổn.
Thông thường lợi nhuận trung bình được thể hiện hàng năm. Chúng ta luôn sử dụng
cách tính trung bình bằng hình học hơn là bằng số học. Nghĩa là nếu mức lợi nhuận
trung bình là 1% /tháng thì mức lợi nhuận trung bình hàng năm thể hiện dưới dạng
số học là 12% (lấy 12 nhân với 1%). Tuy nhiên, nếu mức lợi nhuận ta nhận hàng
tháng là 1% và ta tái đầu tư lại thì chúng ta sẽ nhận được 12,7% vào cuối năm. Hầu
như ta luôn muốn sự tính toán thống kê của chúng ta phản ánh được số tiền mình
đem đầu tư được lời hay lỗ.
Mức bất định6 cũng được tính theo hàng năm. Trong trường này, chúng ta không
nhân mức bất định hàng tháng cho 12. Nếu chúng ta sử dụng phương sai7 (mức bất
định hay độ lệch chuẩn8 bằng với căn bậc hai của phương sai), thì ta sẽ nhân nó với
12. Còn đối với độ bất định ta nhân với căn bậc hai của 12. Do đó, trong trường hợp
S&P 500, mức bất định trung bình hàng năm là nhỏ hơn 20%.
Rủi Ro và Lợi Nhuận Của Các Loại Tài Sản Mỹ
Phần cuối cùng đáng chú ý là thứ tự chính xác của lợi nhuận trung bình và rủi ro mà
ta phải chịu không phải là bằng nhau dưới dạng mức bất định của loại tài sản. Trong
khi vốn cổ phần có mức bất định cao nhất và trái phiếu kho bạc là thấp nhất, thì trái
phiếu thường lại nằm mức trung bình. Đó là trái phiếu do các công ty phát hành có
lợi nhuận cao hơn và ít bất định hơn trái phiếu do chính phủ phát hành. Điều này dễ
thấy được trong hình vẽ sau.
Đồ thị này cho thấy lợi nhuận kỳ vọng (trục Y) so với mức bất định (trục X). Đôi khi
nó được gọi là đồ thị độ lệch chuẩn trung bình9 (hay phương sai trung bình, hay lợi
nhuận so với rủi ro). Những nhà đầu tư không thích rủi ro lại thích được nhiều lợi
nhuận và thật ít rủi ro. Nghĩa là chúng ta thích lợi nhuận càng cao càng tốt và hướng
về bên trái càng nhiều càng tốt (hướng về phía tây bắc).
Chú ý rằng trái phiếu công ty dài hạn có mức lợi nhuận kỳ vọng cao hơn và mức bất
định thấp hơn so với trái phiếu của chính phủ. Trên đồ thị nó nằm phía trên và bên
trái của trái phiếu chính phủ. Nếu chúng ta chỉ có hai loại tài sản để chọn, chúng ta
sẽ đầu tư và trái phiếu công ty. Nó còn chiếm ưu thế đầu tư hơn so với trái phiếu
chính phủ dưới dạng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn.
Về mặt kỹ thuật mà nói, chúng ta đều muốn chiếm được một ưu thế 'vô điều kiện'.
Vô điều kiện bởi vì lợi nhuận kỳ vọng dựa vào mức trung bình trong một quá trình
dài quy định. Dưới góc độ là một nhà đầu tư, chúng ta thật sự quan tâm về lợi nhuận
nhận được trong tương lai. Mức lợi nhuận trung bình tương lai nhận được không nhất
thiết phải dựa vào mức lợi trung bình trong suốt một quá trình dài. Khi chúng ta
khảo sát đến bản phân tích của mình và phát triển những mô hình dự báo lợi nhuận
và các phương sai trong khoá học Chiến Lượt Phân Bố Tài Sản Toàn Cầu, chúng
ta sẽ bàn đến ưu thế "có điều kiện".
Vốn cổ phần biến động ra sao?
Chúng ta đều đã thấy rằng mức hoạt động đầu tư của S&P 500 đều thay đổi nhanh
theo hàng tháng. Ngược lại, lợi nhuận thu được từ nó lại cao hơn so với những loại cổ
phần đầu tư cố định và có chất lượng khác (của chính phủ hay của tư nhân). Tuy
nhiên, chúng ta đều muốn giữ cổ phần này hơn một tháng. Vậy thời gian nắm giữ cổ
phần này ảnh hưởng như thế nào đến việc đánh giá của ta về mức hoạt động của
chúng?
Hình vẽ dưới đây thể hiện những mức lợi nhuận chồng chéo lên nhau trong nhiều
khoảng thời gian nắm giữ, mỗi khoảng là 12 tháng. Nghĩa là một danh mục đầu tư
được thực hiện từ tháng 12 năm 1925 đến tháng 12 năm 1926. Danh mục đầu tư kế
tiếp từ tháng 1 năm 1926 đến tháng 1 năm 1927 và vân vân. Hãy chú ý rằng trong
số những khoảng lợi nhuận thu được từ những loại đầu tư này thì khoảng lợi nhuận
tích cực chiếm số luợng trội hơn so với lợi nhuận tiêu cực. Tuy nhiên, vẫn có một số
giai đoạn xãy ra suy thoái tài sản nghiêm trọng - đặc biệt là khoảng thời gian xãy ra
cuộc Đại Suy Thoái (chú ý rằng "cuộc suy thoái" năm 1987 cũng chỉ được thể hiện sơ
qua trong biểu đồ này).