Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Sức mạnh thông minh, thế kỷ Thái Bình Dương và học thuyết đối ngoại Obama
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Nghiên cứu Quốc tế số 1 (88) Nghiên cứu - Trao đổi
3/2012 207 1 208 3/2012
SỨC MẠNH THÔNG MINH, THẾ KỶ THÁI BÌNH
DƢƠNG VÀ HỌC THUYẾT ĐỐI NGOẠI OBAMA
TS. Vũ Lê Thái Hoàng*
Tóm tắt
Một loạt các hoạt động ngoại giao song phương và đa phương dồn
dập, mang tính biểu tượng cao tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương
của Tổng thống Obama và Ngoại trưởng Clinton hai tháng cuối năm
2011 vừa qua có thể được xem là “cú ra đòn” quyết định trong nỗ lực
chuẩn bị liên tục gần ba năm qua của chính quyền Obama nhằm xây
dựng, thử nghiệm và công bố Học thuyết đối ngoại Obama được gói gọn
trong hai luận điểm cơ bản, nổi bật nhất: sức mạnh thông minh (smart
power) và thế kỷ Thái Bình Dương (Pacific Century, hay nói cách khác
là sự chuyển hướng trọng tâm chiến lược của Mỹ sang khu vực châu Á -
Thái Bình Dương). Sự thông minh, khôn ngoan của Mỹ trong việc sử
dụng sức mạnh hiện có được thể hiện qua bẩy phương diện chính là lựa
chọn thông điệp, cân bằng thể chế, lựa chọn mục tiêu, phân bổ nguồn
lực, lựa chọn công cụ, phương thức và địa bàn triển khai. Sự chuyển
hướng trọng tâm chiến lược sang châu Á - Thái Bình Dương thực chất là
sự lựa chọn địa bàn khôn ngoan của chính quyền Obama nhưng vẫn
phản ánh đầy đủ bẩy phương diện của “sức mạnh thông minh” nói trên
qua thực tiễn triển khai chính sách đối với mạng lưới quan hệ song
phương và cấu trúc khu vực. Kết quả của cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ
năm 2012 sẽ góp phần trả lời câu hỏi về tương lai của học thuyết này.
* Bộ Ngoại giao. Quan điểm trong bài viết này là của riêng tác giả và không nhất thiết
phản ánh quan điểm của nơi tác giả đang làm việc.
Thực tiễn lịch sử nước Mỹ cho thấy các Tổng thống luôn muốn tạo
dấu ấn nhiệm kỳ qua những học thuyết chính sách (policy doctrine) hay
chiến lược lớn (grand strategy) và nhiều Tổng thống được cả thế giới
biết đến với học thuyết chính sách đối ngoại của một cường quốc/siêu
cường có thể làm xoay chuyển cục diện quan hệ quốc tế trong từng giai
đoạn lịch sử. Thậm chí có học thuyết mang giá trị lâu dài, đôi khi còn được
vận dụng lại trong hoạch định chính sách bởi các vị Tổng thống kế nhiệm về
sau này. Có thể kể ra một số học thuyết nổi bật mà tên gọi của nó gắn liền
với tên tuổi của các vị Tổng thống hơn là nội dung của học thuyết đó: học
thuyết Monroe năm 1823 với quan điểm nổi tiếng “châu Mỹ là của người
Mỹ”; học thuyết Truman năm 1947 về “ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản” khơi
mào cho Chiến tranh lạnh; học thuyết “đô-mi-nô” và “lấp chỗ trống” ở
Trung Cận Đông năm 1957 của Tổng thống Eisenhower; học thuyết Nixon
năm 1969 (hay còn gọi là “học thuyết Guam”) ở vùng Vịnh Péc-xích; học
thuyết “cam kết và mở rộng” năm 1995 của Tổng thống Clinton…
Mỗi một học thuyết ra đời phản ánh không chỉ tư duy của cá nhân
lãnh đạo (tổng thống, ngoại trưởng, cố vấn an ninh quốc gia) và chính
phủ cầm quyền, mà còn cả sự thắng thế của một trường phái/luồng tư
tưởng, cũng như hoàn cảnh lịch sử trong và ngoài nước tại từng thời
điểm lịch sử nhất định. Về nguyên tắc, các Tổng thống Mỹ không nhất
thiết cần các học thuyết đối ngoại, một phần vì quá trình xây dựng học
thuyết đòi hỏi nhiều công sức, thời gian và tiền đề bối cảnh lịch sử thật
đặc biệt, phần khác vì học thuyết cũng chỉ nhằm đánh bóng tên tuổi của
Tổng thống hơn là nhu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, xét từ góc độ hoạch định
chính sách, học thuyết là kim chỉ nam cho chính sách đối ngoại, giúp xác
định ưu tiên (về đối tác, địa bàn, lĩnh vực, phương thức), phân bổ nguồn
lực triển khai (thường là hạn chế) và là thông điệp chính sách đối ngoại
quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất gửi đến bạn bè/đồng minh, kẻ thù/đối thủ,
dư luận trong nước và quốc tế, Quốc hội và cử tri Mỹ. Về mặt lý luận,
, 3/2012: 207-246.
Nghiên cứu Quốc tế số 1 (88) Nghiên cứu - Trao đổi
3/2012 209 2 210 3/2012
đại đa số các học thuyết đều được xây dựng trên nền tảng tư tưởng của
hai trường phái lớn là Hiện thực (Realism) và Tự do (Liberalism).
Chiến tranh lạnh kết thúc và sự sụp đổ của Liên Xô - đối thủ chính
của Mỹ - kéo theo sự thoái trào của học thuyết “Ngăn chặn”
(Containment) làm mưa làm gió suốt hơn bốn thập kỷ, đồng thời cũng
mở ra cuộc tranh luận mới về một học thuyết đối ngoại thay thế có ảnh
hưởng lớn như học thuyết “Ngăn chặn”. Tổng thống Clinton đã nỗ lực
xây dựng “Chiến lược an ninh quốc gia cam kết và mở rộng” chịu ảnh
hưởng của trường phái Tự do; hai đời Tổng thống Bush cha và Bush con
đều bị cuốn vào các cuộc chiến nên chưa đưa ra được một học thuyết rõ
ràng, đáng chú ý là Tổng thống Bush cha kêu gọi xây dựng một “Trật tự
thế giới mới” sau chiến tranh Vùng Vịnh 1990 -1991 và Tổng thống
Bush con chịu ảnh hưởng của tư tưởng Tân Bảo thủ trong chiến dịch toàn
cầu chống khủng bố sau sự kiện 11/9; Tổng thống Obama với sự hỗ trợ
của Ngoại trưởng Hillary Clinton đang hoàn thiện học thuyết đối ngoại
mới theo hướng thực dụng hơn, kết hợp giữa Hiện thực và Tự do. Theo
Richard Haass - tác giả của luận điểm “thế giới vô cực” (non-polarity),
các nỗ lực xây dựng học thuyết đối ngoại Mỹ từ khi kết thúc Chiến tranh
lạnh cho đến nay xoay quanh bốn nội hàm chủ đạo: thúc đẩy dân chủ,
can thiệp nhân đạo, chống khủng bố và gắn kết, hòa nhập.
1 Charles
Kupchan nhấn mạnh bốn nguyên tắc lớn của một học thuyết đối ngoại
hiện nay cần phải là: đồng thuận chính trị và phục hồi kinh tế trong nước;
điều chỉnh cam kết chiến lược phù hợp với lợi ích, nguồn lực; hợp tác với
các cường quốc mới nổi để xây dựng hệ thống quốc tế dựa trên luật lệ;
củng cố nền tảng đối ngoại là quan hệ xuyên Đại Tây Dương với Liên
minh châu Âu (EU).
2 Cuộc tranh luận về học thuyết đối ngoại này nằm
trong cuộc tranh luận rộng rãi hơn giữa hai phái ủng hộ triển vọng
1 Richard Haass, “The Restoration Doctrine”, Tạp chí American Interest, (tháng 1-
2/2012).
2 Charles Kupchan, “Grand Strategy”, Tạp chí Democracy Journal, (Winter 2012).
“thịnh” và “suy” của siêu cường Mỹ trong vài thập niên tới, đặc biệt
trong bối cảnh một nước Mỹ với sức mạnh đang đà suy giảm tương đối
với nhiều khó khăn kinh tế bên trong phải đối phó với một Trung Quốc
“bùng nổ” về sức mạnh (nhất là kinh tế, quân sự) và ngày càng quyết
đoán, ảnh hưởng trên trường quốc tế.3
3 Xem thêm Vũ Lê Thái Hoàng, “Đánh giá về sức mạnh của Mỹ và những hệ lụy quốc
tế trong những thập niên đầu của thế kỷ 21”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế (Học viện
Ngoại giao), Số 2 (73) (6/2008); Joseph Nye, The Future of Power, NXB Public Affairs,
2011; Zbigniew Brzezinski, Strategic Vision: America and the Crisis of Global Power,
NXB Basic Books, New York, 2012; Zbigniew Brzezinski, “After America”, Tạp chí
Foreign Policy (Jan/Feb 2012), truy cập tại www.foreignpolicy.com/articles/
2012/01/03/after_america; Con Coughlin, “America is retreating from the world stage”,
The Telegraph (4/1/2012), truy cập tại www.telegraph.co.uk; Francis Fukuyama, “The
Future of History”, Tạp chí Foreign Affairs (Jan/Feb 2012); Daniel Drezner, “Worst
Empire Ever”, Tạp chí Foreign Policy (16/12/2011), truy cập tại www.foreignpolicy.
com; Richard Haass, “The Restoration Doctrine”, Tạp chí American Interest (tháng 1-
2/2012); Charles Kupchan, “Grand Strategy”, Tạp chí Democracy Journal (Winter
2012); John Lee, “Dragon‟s rise sees Asia yearn for Uncle Sam”, The Australian
(22/11/2011); Leon Hadar, “America‟s Long-Delayed Pacific Century”, Tạp chí The
National Interest (21/11/2011), truy cập tại www.nationalinterest.org/ commentary/
americas-long-delayed-pacific-century-6175; Stephen Walt, “Explaining Obama‟s Asia
policy”, Tạp chí Foreign Policy (18/11/2011), truy cập tại www.foreignpolicy.com;
Lionel Barber, “In search of a new Metternich for the Pacific Century”, Financial Times
(18/11/2011), truy cập tại www.ft.com; Richard Haass, “Re-orienting America”, trang
web Project Syndicate (14/11/2011), truy cập tại www.project-syndicate.org/
commentary/haass38/English; Michael Moran, “The Reckoning Begins”, trang web The
Slate (7/11/2011), truy cập tại www.slate.com; Stephen Walt, “The End of American
Era”, Tạp chí The National Interest (Nov/Dec 2011); Gideon Rachman, “America must
manage its decline”, Financial Times (17/10/2011), truy cập tại www.ft.com; George
Packer, “The Broken Contract: Inequality and American Decline”, Tạp chí Foreign
Affairs (11/10/2011); Aaron Friedberg, A Contest for Supremacy: China, America and
the Struggle for Mastery in Asia, NXB Norton, New York, 2011; Jeffrey Sachs, The
Price of Civilization: Reawakening American Virtue and Prosperity, NXB Random
House Export, 2011; Douglas Paal, “United States: A Stabilizing or Destabilizing Factor
in the Asia - Pacific Region?”, Asia Pacific Brief (19/9/2011), Carnegie Endowment,
truy cập tại www.carnegieendowment.org; Robert Kaplan, “A Power Shift in Asia”, The
Washington Post (24/9/2011), truy cập tại www.washingtonpost.com; Simon Johnson,
“Who Will Eclipse America?”, trang web Project Syndicate (19/9/2011), truy cập tại
www.project-syndicate.org; Charles Kupchan, “Sorry, Mitt: It Won‟t Be an American
Century”, Tạp chí Foreign Policy (6/2/2012), truy cập tại www.foreignpolicy.com;
Edward Luce, “The reality of American decline”, Financial Times (5/2/2012), truy cập
tại www.ft.com.