Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Sử thi Bahnar và số phận của nó trong xã hội đương đại
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của tôi và công trình này
đảm bảo các nguyên tắc đạo đức trong việc trích dẫn tài liệu!
Nghiên cứu sinh
Lê Thị Thùy Ly
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Khái niệm và mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 4
3. Đóng góp của luận án 5
4. Bố cục 5
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU 6
1.1. Vài nét về tộc ngƣời chủ thể của sử thi Bahnar 6
1.2. Tình hình nghiên cứu sử thi Bahnar 19
1.3. Lí thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu 38
CHƢƠNG 2. SỬ THI BAHNAR - SẢN PHẨM VĂN HÓA ĐẶC THÙ
CỦA XÃ HỘI TRUYỀN THỐNG 41
2.1. Nội dung và hình thức của sử thi Bahnar, sự phản chiếu bối cảnh
xã hội hình thành nó 42
2.1.1. Nội dung 42
2.1.2. Hình thức 57
2.2. Vai trò xã hội của sử thi Bahnar, sự đáp ứng nhu cầu lịch sử cụ thể 73
2.2.1. Vai trò liên kết cộng đồng 73
2.2.2. Vai trò bảo lưu và cung cấp kinh nghiệm hoạt động thực tiễn 78
2.2.3. Vai trò giáo dục đạo đức và thẩm mĩ 86
CHƢƠNG 3. KẾT THÚC HÌNH THỨC TỒN TẠI VỐN CÓ - SỐ PHẬN
CỦA SỬ THI BAHNAR TRONG XÃ HỘI ĐƢƠNG ĐẠI 97
3.1. Con đƣờng từ quá khứ đến hiện tại của sử thi Bahnar 97
3.2. Tình hình bảo tồn, khai thác và phát huy di sản sử thi Bahnar 123
3.3. Xu thế vận động của sử thi Bahnar hiện nay và một số hƣớng
bảo tồn, khai thác, phát huy có thể nghĩ tới 141
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN CỦA TÁC GIẢ CÔNG BỐ
TRONG THỜI GIAN THỰC HIỆN LUẬN ÁN 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 170
2
NGHĨA CỦA CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÍ HIỆU
ĐHQG Đại học Quốc gia
KHXH Khoa học xã hội
Nxb. Nhà xuất bản
TP. Thành phố
tr. Trang
UBND Ủy ban Nhân dân
xb. Xuất bản
// In trong
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dân tộc Bahnar1
, cư trú tại cao nguyên Nam Trung Bộ Việt Nam, có
một nền văn hoá độc đáo với các loại hình nghệ thuật phong phú trong đó bao
gồm các thiên sử thi mà người bản tộc gọi là h’mon2
. Là thành tựu của nhóm
cư dân thuộc vào loại sinh sống lâu đời nhất ở bán đảo Đông Dương, sử thi
Bahnar nói chung mang đậm tính bản địa, rất ít hoặc hầu như không chịu ảnh
hưởng bởi các yếu tố ngoại lai như một bộ phận lớn sử thi của các dân tộc
Đông Nam Á khác. Việc tìm hiểu mối quan hệ giữa h’mon với xã hội Bahnar
trong quá khứ, vì vậy, sẽ giúp chúng ta nhận thức rõ hơn những sản phẩm
nghệ thuật nội sinh rất tiêu biểu này của tộc người.
Những thay đổi nhiều mặt về kinh tế - xã hội và sự tác động của làn
sóng văn hoá đương đại trong mấy thập niên qua đã dẫn đến việc giải thể cấu
trúc văn hóa cổ truyền Bahnar ở các địa bàn dân cư với những mức độ khác
nhau. Sự tồn tại của h’mon nói riêng và sử thi các dân tộc Tây Nguyên khác
nói chung đã và đang gặp phải rất nhiều thách thức trong bối cảnh mới. Tương
lai nào sẽ chờ đợi h’mon, thiết nghĩ đó cũng là điều cần được quan tâm.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu những vấn đề vừa đề cập, tức tìm hiểu sử thi
Bahnar trong bối cảnh chính trị - kinh tế - xã hội của quá khứ và hiện tại hay
nói cách khác đặt nó dưới góc độ tiếp cận liên ngành của văn hoá học, cho đến
nay, về cơ bản vẫn chưa được tiến hành một cách có hệ thống. Vì thế, bổ sung
những nghiên cứu phù hợp vào khoảng trống này là điều cần thiết. Từ lí do
trên, với nguyện vọng đóng góp tiếng nói của mình, chúng tôi chọn Sử thi
Bahnar và số phận của nó trong xã hội đương đại làm đề tài nghiên cứu.
1 Đề tài thống nhất dùng từ Bahnar thay cho Bana, Banar, Ba Na… vì đây là tộc danh quen thuộc mà người
Bahnar thường sử dụng và chính xác hơn về mặt ngữ âm so với những cách ghi khác. Với những tài liệu sử
dụng các cách ghi ngoài Bahnar, chúng tôi cũng xin phép thay bằng từ này.
2 Đề tài thống nhất dùng từ h’mon thay cho các cách viết khác nhau về tên gọi bản ngữ của sử thi Bahnar: hmon,
hơ mon, hơămon…
4
2. Khái niệm và mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Khái niệm: 1) Sử thi Bahnar: Các sáng tác tự sự truyền miệng của người
Bahnar chủ yếu xoay quanh một nhân vật anh hùng được xem là biểu tượng
của cộng đồng tộc người trong lịch sử, có tên Dăm Giông; 2) Số phận: Sự
sống; 3) Xã hội đương đại: Xã hội của người Bahnar từ sau Đổi mới (1986).
Sự xác định trên căn cứ vào định nghĩa của Từ điển tiếng Việt: 1. Sử thi:
“Tác phẩm lớn thuộc loại văn tự sự, miêu tả sự nghiệp của những người anh
hùng và các sự kiện lịch sử lớn” [129, tr. 877] - định nghĩa này nhìn chung
thống nhất với một số từ điển/ bách khoa thư chuyên ngành cũng như phổ
thông được chú ý trên thế giới hiện nay như Merriam Webster’s Encyclopedia
of Literature (1995), A Dictionary of Literary Terms and Literary Theory
(1998), Encyclopedia of Literature and Criticism (2000), The Cambridge
Encyclopedia (2000), The Encyclopedia Americana (2001), Compton’s
Encyclopedia (2001), The World Book Encyclopedia (2001), The New
Encyclopedia Britannica (2002),…; 2. Số phận: “Sự sống, sự tồn tại dành cho
mỗi người, mỗi sự vật” [129, tr. 866]; 3. Đương đại: “Thuộc về thời đại hiện
nay” [129, tr. 357].
Mục đích nghiên cứu: Xác định bản chất của h’mon với tư cách sản
phẩm của một bối cảnh lịch sử cụ thể, từ đó nhận diện số phận của nó trong
đời sống đương đại.
Đối tượng nghiên cứu: 1) Nội dung, hình thức và vai trò của h’mon như
là kết quả sự tương tác giữa tác phẩm và bối cảnh lịch sử hình thành nó; 2) Sự
sống của h’mon trong cộng đồng người Bahnar ngày nay.
Phạm vi nghiên cứu: H’mon và đời sống của nó tại Tây Nguyên trước
và sau Đổi mới. Những địa bàn nghiên cứu cụ thể được lựa chọn là Gia Lai và
Kon Tum, khu vực sưu tầm h’mon cơ bản kể từ khi phát hiện cho đến nay và
cũng là nơi cư trú tập trung của tộc người chủ thể (theo số liệu của Tổng điều
5
tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 [110], Gia Lai và Kon Tum là các
tỉnh có nhiều người Bahnar sinh sống nhất tại Việt Nam: với lần lượt hơn
150.000 và gần 55.000 trên tổng số 230.000 người). Hai địa phương này -
nhất là Gia Lai - còn lưu giữ tương đối rõ nét dấu ấn văn hóa cổ truyền
Bahnar, bao gồm sử thi, mặt khác cũng là nơi cho thấy rõ nhất những biến đổi
mọi mặt của tộc người trong những thập niên qua. Để đảm bảo tính đại diện,
các điểm nghiên cứu được thiết kế bao gồm cả nông thôn, thành thị và vùng
hỗn hợp.
3. Đóng góp của luận án
Đây là luận án nghiên cứu một cách có hệ thống về h’mon dưới góc độ
văn hoá học nhằm xác định bản chất của h’mon trong mối quan hệ với bối
cảnh lịch sử - xã hội hình thành nó và chỉ ra số phận của hình thức văn hóa độc
đáo này trong xã hội đương đại.
Về mặt lí luận, qua việc giải quyết vấn đề nghiên cứu, luận án đề xuất
hướng vận dụng chính xác hơn một lí thuyết tuy đã được biết đến nhiều trong
việc nghiên cứu sử thi ở Việt Nam nói chung song sự vận dụng lâu nay còn có
điểm bất cập.
Về mặt thực tiễn, luận án đề xuất một số phương án ứng xử với sử thi
Bahnar, những tác phẩm nằm trong khối di sản văn hóa phi vật thể đang được
dư luận quan tâm hiện nay của Tây Nguyên, mà người làm chính sách có thể
tham khảo.
4. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án có 03 chương:
Chương 1. Tổng quan về những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu;
Chương 2. Sử thi Bahnar-sản phẩm văn hóa đặc thù của xã hội truyền thống;
Chương 3. Kết thúc hình thức tồn tại vốn có -số phận của sử thi Bahnar trong
xã hội đương đại.
6
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU
1.1. VÀI NÉT VỀ TỘC NGƢỜI CHỦ THỂ CỦA SỬ THI BAHNAR
1.1.1. Quá trình lịch sử tộc ngƣời
Người Bahnar thuộc nhóm loại hình Indonedien của chủng Mongoloid
phương Nam [46, tr. 19 - 20], là dân tộc nói ngôn ngữ Mon - Khmer lớn nhất
ở Nam Trung Bộ và thứ hai ở Việt Nam, hiện sinh sống tập trung trên một
vùng lãnh thổ cơ bản là cao nguyên và núi rộng gần 1 vạn km2
ứng với tọa độ
130
00 - 150
00 vĩ Bắc, 1070
40 - 1090
00 kinh Đông (bao gồm một phần tỉnh Gia
Lai, Kon Tum, Bình Định và Phú Yên).
Số liệu của Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 [110]
cho biết, dân số Bahnar hiện nay là 227.716. Trong đó, tỉnh Gia Lai có
150.416 người, cư trú chủ yếu tại các huyện Mang Yang, Kon Chro, Kbang,
An Khê, Chư Sê và A Yun Pa Ku; tỉnh Kon Tum có 53.997 người, cư trú chủ
yếu tại thành phố Kon Tum và các huyện Đắc Hà, Kon Plông, Đắc Tô; tỉnh
Bình Định có 18.175 người, cư trú chủ yếu tại các huyện Vĩnh Thạnh, Vân
Canh, Hoài Ân và Tây Sơn; tỉnh Phú Yên có 4.145 người, cư trú chủ yếu tại
các huyện Đồng Xuân, Sông Hinh và Sơn Hoà.
Dân tộc Bahnar là sự tập hợp của một số nhóm địa phương mà cách xác
định trong các công trình nghiên cứu là không hoàn toàn giống nhau. P.
Guilleminet (1952) nói tới 07 nhóm: “Alakong”, “Tolo”, “Bơnơm”, “Gơlar”,
“Jơlong”, “Kontum” và “Rơngao” [32, tr. 5]. Nguyễn Hữu Thấu (1960) tuy
cũng nêu lên những cái tên này nhưng ngoài ra còn nhắc đến “Krem”, “Vân
Canh” và “Bằng Hường” là những nhóm chịu ảnh hưởng của người Chăm và
Kinh [97, tr. 42 - 43]. Lê Thị Ái (1969) bổ sung “Rơngao” ở phía bắc thị xã
7
Kon Tum1
là bộ phận trung gian giữa người Bahnar với Xơđăng và “Kriêm” ở
phía bắc huyện An Khê là bộ phận Bahnar lai Chăm [1, tr. 50]. L. Schrock,
W.Jr. Stockton, E.M. Murphy và M. Fromme (1966), có tham khảo người đi
trước, thì liệt kê: “Alakong”, “Bonam”, “Golar”, “Ho Drong”, “Jo Long”,
“Kon Ko De”, “Kon Tum” và “To Sung” [173, tr. 1]. Con số lớn nhất được
đưa ra có lẽ là của Cửu Long Giang và Toan Ánh (1974) với “Bahnar Kon
Tum”, “Bahnar Jolong”, “Bahnar Golar”, “Bahnar Tosung”, “Bahnar
Konkođe”, “Bahnar Alatanag”, “Bahnar Alakong”, “Bahnar Tolotenil”,
“Bahnar Bơnom”, “Bahnar Roh”, “Bahnar Krem”, “Bahnar Chàm” và
“Bahnar But” [30, tr. 287 - 288]. Ngược lại, Đặng Nghiêm Vạn và cộng sự
(1981) giới thiệu một sự phân loại giản lược hơn hẳn chỉ với 05 nhóm là
“Công Tum”, “Tồlồ”, “Gơlar”, “Rơngao”, “Giơlơng” và “Krem” [124, tr.
105]. Còn trong cuốn dân tộc chí gần đây nhất về người Bahnar vào năm
2006, chủ biên Bùi Minh Đạo và các đồng tác giả “căn cứ vào ý kiến của
chính người bản tộc” cho biết rằng nó có ít nhất 08 nhóm, bao gồm: 1.
“Tơlô”, cư trú ở huyện Kon Chro và huyện An Khê, tỉnh Gia Lai; 2. “Krem”,
cư trú ở huyện Vĩnh Thạnh, An Lão, Hoài Ân và Tây Sơn, tỉnh Bình Định,
một số ít ở huyện Kbang, tỉnh Gia Lai; 3. “Vân Canh”, cư trú ở huyện Vân
Canh, tỉnh Bình Định; 4. “Thồ Lồ”, cư trú ở huyện Đồng Xuân, Sơn Hoà và
Sông Hinh, tỉnh Phú Yên; 5. “Gơ Lar”, cư trú ở các huyện Mang Yang, Đắc
Đoa và Chư Sê, tỉnh Gia Lai, một phần ở quanh thành phố Kon Tum, tỉnh
Kon Tum; 6. “Kon Tum”, cư trú ở thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum; 7.
“Jơlơng”, cư trú ở quanh thành phố Kon Tum và huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon
Tum; và 8. “Rơngao”, cư trú tại thành phố Kon Tum và huyện Đắc Tô, tỉnh
Kon Tum [26, tr. 32 - 33].
1 Nay là thành phố.
8
Người Bahnar được xem là dân tộc bản địa1
của Tây Nguyên. Giới
nghiên cứu ở Việt Nam cho đến nay vẫn ủng hộ giả thuyết rằng tộc người này
vốn sinh sống tại vùng trung Tây Nguyên nhưng đã bị các tộc người nói ngôn
ngữ Nam Đảo nhập cư sau từng bước khống chế và đẩy lên phía bắc. Ngoài
ra, Đặng Nghiêm Vạn và Ngô Vĩnh Bình còn cung cấp thêm thông tin đáng
chú ý: “Một số tư liệu rời rạc thoáng qua cho ta thấy xưa kia họ có thể ở đồng
bằng và họ là một cư dân cổ xưa được người Chàm ghi trong bia kí của mình
là Mađa cư trú ở vùng ven biển Nghĩa Bình” [124, tr. 105 - 106].
Lịch sử tộc người Bahnar, có thể nói, gắn liền với lịch sử các dân tộc
Tây Nguyên. Theo các tác giả Dân tộc Bahnar ở Việt Nam, sau nhiều thế kỉ tự
trị, vùng đất của người Bahnar cũng như nhiều dân tộc Tây Nguyên khác2
rơi
vào phạm vi ảnh hưởng của Champa trong khoảng thời gian từ giữa thế kỉ XII
đến giữa thế kỉ XV. Còn từ cuối thế kỉ XV - sau khi Lê Thánh Tông chinh
phạt thắng lợi vương quốc này - đến cuối thế kỉ XVIII, địa bàn sinh sống của
họ lại phần nào chịu ảnh hưởng bởi các cuộc xung đột giữa Lào và Thái Lan.
Cuối thế kỉ XVIII, một bộ phận người Bahnar thuộc An Khê, Kbang và Kon
Chro ngày nay đã tham gia phong trào Tây Sơn chống chúa Nguyễn do anh
em Nguyễn Nhạc làm thủ lĩnh. Đến nửa đầu thế kỉ XIX, vùng đất của người
Bahnar và các tộc người Tây Nguyên khác trở thành phiên quốc của nhà
Nguyễn, với các tên “Trấn man”, “Thuộc quốc”, “Thuỷ vương quốc”, “Hỏa
vương quốc”... Từ cuối thế kỉ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX, nó nằm dưới sự
quản lí của thực dân Pháp [26, tr. 45 - 47]. Tuy nhiên, dù trải qua những biến
thiên lịch sử nhất định trong mười thế kỉ qua, cơ cấu kinh tế - xã hội cổ truyền
của người Bahnar cho đến trước Cách mạng tháng Tám là khá bền vững. Sau
1 Cụm từ “dân tộc bản địa” (khác với “dân tộc tại chỗ”) được dùng với nghĩa phân biệt người Bahnar với
những dân tộc cũng sinh sống lâu đời ở Tây Nguyên nhưng không sớm bằng.
2 Ngay từ thế kỉ thứ X sau Công nguyên, vùng đất của các dân tộc Tây Nguyên đã gần trùng với địa bàn cư
trú của họ vào đầu thế kỉ XX [72, tr. 182].
9
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ kéo dài 30 năm1
, tộc người
này đã trở thành thành viên của đại gia đình các dân tộc Việt Nam thống nhất
vào năm 1975.
1.1.2. Đặc điểm môi trƣờng tự nhiên của nơi cƣ trú
Về địa hình, nơi cư trú của người Bahnar là vùng thấp nằm ở phía
đông, bao gồm ba huyện An Khê, Kbang và Kon Chro của tỉnh Gia Lai, phần
miền núi của hai tỉnh Bình Định, Phú Yên và vùng cao nằm ở phía tây, bao
gồm các huyện Đắc Đoa, Mang Yang của tỉnh Gia Lai, thành phố Kon Tum
cùng các huyện Đắc Hà, Kon Rẫy và Kon Plông của tỉnh Kon Tum. Cả hai
vùng đều được tạo nên bởi thung lũng, cao nguyên và núi. Địa hình thung
lũng nhìn chung bằng phẳng, bao gồm: thung lũng Kon Tum, châu thổ của
sông Đắc Bla, sông Pô Kô thuộc thành phố Kon Tum và huyện Đắc Hà, tỉnh
Kon Tum; thung lũng sông Ba nằm ở ven sông Ba, thuộc các huyện Kbang,
An Khê và Kon Chro, tỉnh Gia Lai; thung lũng ven sông A Yun, thuộc các
huyện Đắc Đoa, Mang Yang, tỉnh Gia Lai. Địa hình cao nguyên, tương đối
bằng phẳng, bao gồm cao nguyên Kông Hà Nừng thuộc các huyện Kbang, An
Khê, một phần cao nguyên Pleiku thuộc các huyện Đắc Đoa, Mang Yang,
Chư Sê, tỉnh Gia Lai và huyện Đắc Hà, tỉnh Kon Tum. Địa hình núi bao gồm
các núi cao, trung bình và thấp, nằm rải rác trong vùng như He Reng, Mang
Yang, Kon Chro, Kon Plông... [26, tr. 21].
Đất đai ở khu vực cư trú của người Bahnar bao gồm ba nhóm chính:
nhóm đất bazan chủ yếu phân bố ở cao nguyên, tập trung tại các huyện Đắc
Đoa, Mang Yang, tỉnh Gia Lai và huyện Đắc Hà, tỉnh Kon Tum, rất thích hợp
cho việc phát triển cây công nghiệp như chè, hồ tiêu, cà phê, cao su...; nhóm
đất phù sa phân bố ở ven các sông Ba, Đắc Bla, Pô Kô và A Yun, thích hợp
1 Do đến tận đầu thế kỉ XX toàn quyền Pháp ở Đông Dương mới ra nghị định sáp nhập Tây Nguyên vào Việt
Nam, ý thức “về quốc gia, quốc thổ” của người dân Tây Nguyên là “mới mẻ” và “chủ yếu có được qua hai
cuộc kháng chiến cứu nước trong thế kỉ XX” [24, tr. 105]
10
cho việc phát triển lúa nước, các loại cây lương thực và cây thực phẩm; và
nhóm đất granite nằm trên các đồi núi, thích hợp cho việc phát triển kinh tế
lâm nghiệp [26, tr. 22].
Khí hậu tại nơi cư trú của người Bahnar, giống như toàn Tây Nguyên
nói chung, mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa với nhiều tiểu vùng khác
nhau. Một năm có hai mùa rất rõ rệt là mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 10)
và mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 3), trong đó mùa mưa ở các huyện phía
đông Nam Trung Bộ bắt đầu và kết thúc muộn hơn do chịu ảnh hưởng của
khí hậu đồng bằng. Điều kiện khí hậu này đã đem đến cho người Bahnar một
hệ động thực vật đặc biệt phong phú, trong đó có hàng chục loài đặc hữu chỉ
có ở Việt Nam hoặc Đông Dương [26, tr. 22 - 25].
Nguồn nước cũng được xem là một tiềm năng lớn cho hoạt động sản
xuất và sinh hoạt của người Bahnar, bao gồm nguồn nước mưa, nước mặt và
nước ngầm. Nguồn nước mưa chiếm tỉ trọng cao nhất, tuy nhiên phân bố
không đều; tiếp đó là nguồn nước mặt, được tạo thành từ hệ thống sông chảy
về phía tây gồm sông Pô Kô và sông Đắc Bla cùng hệ thống sông chảy về phía
đông gồm sông Ba và sông A Yun; cuối cùng là nguồn nước ngầm, khá lớn, có
độ sâu 4 - 5 m vào mùa mưa và 12 - 15 m vào mùa khô [26, tr. 24 - 25].
1.1.3. Đời sống kinh tế - xã hội
1.1.3.1. Đời sống kinh tế
Các hoạt động mưu sinh chủ yếu của người Bahnar là trồng trọt, chăn
nuôi, làm nghề thủ công, khai thác và trao đổi các nguồn lợi tự nhiên.
Về khía cạnh trồng trọt, người Bahnar - cũng như các dân tộc Tây
Nguyên nói chung - là cư dân nương rẫy. Đất rẫy của mỗi hộ gia đình bao gồm
đất đương canh và hưu canh: mỗi đám rẫy được canh tác một năm rồi bỏ hoá,
sau khoảng mươi năm khi độ màu của đất phục hồi và rừng đã kịp mọc thì
11
khai thác trở lại. Chu trình canh tác được bắt đầu bằng việc chọn rẫy, và nơi
được chọn thường là những khu rừng thứ sinh có độ dốc vừa phải, gần nguồn
nước. Rẫy được phát vào khoảng giữa tháng 2 và được đốt một tháng sau đó.
Tiếp theo là khâu gieo trỉa, chăm sóc và bảo vệ. Năng suất lúa rẫy thường
không ổn định do phụ thuộc lớn vào thời tiết. Ngoài lúa là cây trồng chính,
người ta còn xen canh nhiều loại cây trồng khác nhằm cung cấp phần lớn nhu
yếu phẩm cho cuộc sống tự sản tự tiêu, đồng thời cũng hạn chế tình trạng đất
bị rửa trôi. Trong điều kiện tự nhiên và dân cư như trước đây, với kĩ thuật du
canh khép kín, nương rẫy Tây Nguyên nói chung được đánh giá là hệ canh tác
bền vững. Hiện nay, do sức ép dân số, việc luân khoảnh mở ở người Bahnar
cũng như các dân tộc tại chỗ khác trong vùng - tức canh tác liên tục nhiều
năm trên một đám rẫy - đang thay thế luân khoảnh kín. Tuy nhiên, ruộng khô
và ruộng nước được quan tâm phát triển hơn trước. Đáng chú ý, vườn đa canh
tự cung tự cấp của hộ gia đình ở nhiều địa phương đã và đang chuyển dịch
sang vườn chuyên canh cây công nghiệp [23, tr. 53 - 80, 173 - 190].
Chăn nuôi cũng đóng vai trò là một hoạt động sản xuất quan trọng ở
người Bahnar. Trước kia, gia súc và gia cầm được nuôi tương đối phổ biến ở
Tây Nguyên theo kiểu thả rông hoặc nửa thả rông (cho kiếm ăn và sinh sản
ngoài rừng) nhưng những thay đổi của môi trường và điều kiện sống gần đây
như rừng và nguồn nước không còn, không gian buôn làng bị thu hẹp, việc
định canh định cư trở nên phổ biến... đã khiến đàn trâu và đàn dê bị suy giảm
nhiều. Mặc dù vậy, trâu vẫn tiếp tục được nuôi ở một số địa phương có đông
người Bahnar sinh sống như Mang Yang, Kbang, Kon Chro... Đáng chú ý, bò
trở thành vật nuôi “mũi nhọn” của người Bahnar hiện nay với một số giống
nhập từ nước ngoài. Việc chăn nuôi ở người Bahnar đang ngày càng mang
tính chất một hoạt động sản xuất hàng hóa. Các kĩ thuật chăm sóc mới (nhốt
12
chuồng, tiêm phòng dịch, cho ăn theo chế độ ổn định…) đã thay thế các kĩ
thuật cũ [24, tr. 121 - 122].
Các nghề thủ công quen thuộc nhất của người Bahnar là đan lát và dệt
vải. Đồ đan lát của người Bahnar rất có tiếng. Từ nguyên liệu là mây, tre,
nứa…, sản phẩm đan lát chủ yếu là các loại gùi dùng trên rẫy. Gùi được đan
bởi nam giới vào lúc nông nhàn. Đan lát giỏi là dấu hiệu của sự khéo léo, vì
thế trước đây những người trẻ tuổi thích làm công việc này tại ngôi nhà công
cộng của làng - nhà rông. Việc dệt vải thì được thực hiện bởi phụ nữ. Họ chế
biến sợi từ cây bông trồng trên rẫy rồi nhuộm và dệt thành các tấm vải, cái sẽ
được dùng làm áo, váy, tấm choàng, chăn đắp… [142, tr. 58 - 60]. Hiện tại,
hai nghề thủ công nói trên đều đã suy thoái. Việc đan lát đang trở nên thưa
thớt do thiếu nguồn nguyên liệu và do sự có mặt ồ ạt của những sản phẩm
công nghiệp. Nghề dệt vải cũng không còn sức sống, ngoại trừ ở một số điểm
du lịch.
Người Bahnar trước đây, cũng như nhiều tộc người của Tây Nguyên,
thường khai thác các nguồn lợi trong tự nhiên từ việc săn chim thú, đánh bắt
thủy sản và hái lượm rau củ. Hai dạng săn bắn là săn tập thể và cá nhân đều
được thực hiện vào mùa khô. Ngoài ra, họ còn đặt các loại bẫy thú quanh rẫy,
nhất là vào trước thời điểm thu hoạch. Tuy nhiên, việc đánh bắt thủy sản với
những cách thức rất đa dạng như đắp bờ chặn suối, xúc, thả lưới, úp nơm,
quăng chài, tát cạn, thả lờ, câu... đem lại nguồn thực phẩm thường xuyên
hơn. Người ta cũng tìm hái các loại rau, măng, nấm, quả… và đào các loại củ
có tinh bột để đáp ứng nhu cầu bữa ăn [26, tr. 81 - 86]. Nay, do rừng đã bị
mất phần lớn, các hoạt động săn bắn, hái lượm ở nhiều nơi mai một dần. Săn
bắn tập thể không có điều kiện tồn tại, chỉ còn lại hình thức săn bắn cá nhân
mà đối tượng là các loại chim thú nhỏ ở khu vực phía đông. Số lượng, trữ
lượng cá, côn trùng, nhuyễn thể và rau, củ, quả… trong rừng đều giảm sút rất
13
đáng kể, vì vậy việc khai thác các sản phẩm tự nhiên này cũng ngày càng trở
nên khó khăn [24, tr. 124 - 125].
Người Bahnar vốn ít giao lưu với bên ngoài, sống chủ yếu dựa vào
nương rẫy nên cho tới cách đây vài thập niên, nền thương nghiệp vẫn không
phát triển - đồng tiền chưa xuất hiện và việc trao đổi bằng hiện vật là phổ
biến1
. Mỗi làng Bahnar thường có một đến vài người đi lấy hàng ở các làng
khác về đổi cho dân trong làng nhằm hưởng chênh lệch. Cũng có cả sự trao
đổi giữa người Bahnar với các thương đoàn người Kinh hoặc Lào. Vật được
trao đổi là gia súc, gia cầm, lương thực, sản phẩm dệt, chiêng, ché, muối, nồi
đồng, đồ sắt, lưới đánh cá... Do nguồn lợi tự nhiên đáp ứng cho cuộc sống
khép kín ngày nay đã suy giảm, do tác động của kinh tế thị trường và do giao
thông phát triển, dịch vụ mua và bán hiện đang mở rộng tới tất cả các buôn
làng. Mặt hàng bán ra không chỉ là nông sản mà còn là lâm sản và sản phẩm
cây công nghiệp; mặt hàng mua vào không chỉ là các nhu yếu phẩm mà còn là
các tiện nghi sinh hoạt mới [26, tr. 79 - 80, 278].
1.1.3.2. Đời sống xã hội
Về tổ chức làng, làng của người Bahnar xưa - cũng như nhiều tộc
người Tây Nguyên khác - được điều hành bởi chủ làng do dân cử và hội đồng
già làng mà thường là những người cao tuổi, giàu kinh nghiệm và có uy tín,
trong đó trách nhiệm của chủ làng là giải quyết các vấn đề chung liên quan
đến đối nội (sản xuất, chiến đấu, dời làng…) và đối ngoại (chủ yếu là thương
thuyết trong các tranh chấp)
2
. Mỗi làng còn có thủ lĩnh quân sự, làm nhiệm
vụ chỉ huy thanh niên trong các xung đột với làng hoặc tộc khác. Hiện nay,
1 O. Salemink [171] gợi ý rằng Tây Nguyên trong quá khứ đã có một nền thương nghiệp hướng ngoại. Tuy
nhiên, theo chúng tôi, các thông tin mà tác giả này đưa ra cho thấy nó có một vài yếu tố hơn là đã có một nền
thương nghiệp hướng ngoại thực sự.
2 Tuy nhiên, tính dân chủ vẫn được đề cao. Chẳng hạn, trong việc “xét xử”, sự thảo luận diễn ra công khai và
các già làng thường quan tâm đến ý kiến của số đông khi đưa ra quyết định [79, tr. 26].
14
làng không còn là tổ chức xã hội duy nhất nữa1
, và dĩ nhiên không phải đơn
vị hành chính mặc dù có thêm đại diện của một số ngành chức năng nhà nước
như cộng tác viên dân số, cán bộ khuyến lâm - khuyến nông, cán bộ y tế cộng
đồng... Già làng tuy vẫn còn vai trò ở một số nơi nhưng vai trò này đã bị thu
hẹp hơn khi nhìn chung chỉ tư vấn cho trưởng thôn trong việc triển khai các
chủ trương chính sách kinh tế - xã hội và xét xử các vụ vi phạm phong tục.
Ngoài ra, do tác động của các quá trình di dân tới Tây Nguyên, số làng có sự
xen cư giữa các dân tộc tại chỗ và dân tộc mới đến đang ngày càng tăng,
thậm chí nhiều buôn làng cũ của các dân tộc tại chỗ hiện chỉ còn là một bộ
phận của buôn làng mới [24, tr. 40 - 44, 132 - 141]. Về dòng họ và gia đình,
mỗi dòng họ của người Bahnar bao gồm các thành viên là con cháu của một
ông bà tổ trong một số đời còn nhớ được (khoảng 5 - 6 đời) nằm trong hai
nhóm: nhóm gần với các thành viên từ thế hệ thứ nhất đến thế hệ thứ ba và
nhóm xa với các thành viên từ thế hệ thứ tư trở đi, còn gia đình người Bahnar
vốn là những gia đình lớn gồm tới 3 - 4 thế hệ trực hệ và bàng hệ với khoảng
vài ba chục người trong một ngôi nhà dài2
. Sự phân biệt nhóm họ gần với
nhóm họ xa chính là cơ sở để thực hiện nguyên tắc ngoại hôn dòng họ không
tuyệt đối của tộc người, tuy nhiên, cùng với việc một số hình thức hôn nhân
truyền thống như hôn nhân anh em chồng và chị em vợ (lấy em trai của
chồng/ em gái của vợ khi người phối ngẫu qua đời) hầu như không còn, hôn
nhân đời thứ tư trở xuống trong một dòng họ hiện cũng dần bị thay thế bởi
hôn nhân khác họ. Và mặc dù thiết chế hôn nhân - gia đình Bahnar quen
thuộc là song hệ, xu hướng vợ chồng ở riêng ngay sau khi cưới thay vì cư trú
luân phiên nội - ngoại đang trở nên phổ biến. Chức năng kinh tế của hộ gia
1 Nói chính xác thì trước kia người Bahnar còn có một tổ chức trên làng là t’ring, nhưng chỉ là liên minh
quân sự giữa các làng cùng gốc chứ không phải là liên minh xã hội - kinh tế. Theo Encyclopedia of World
Cultures (Vol.5: East and Southeast Asia) [159, tr. 30], t’ring của người Bahnar được tạo thành từ các làng
láng giềng, còn theo Dân tộc Bahnar ở Việt Nam, nó có thể bao gồm cả những làng cách xa nhau [26, tr. 93].
2 Trước khi chuyển sang mô hình gia đình nhỏ chừng dưới 10 thành viên vào đầu thế kỉ XX.