Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Sử dụng công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
Sử dụng công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo
ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Võ Thị Phƣơng Lan
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - ngân hàng
Mã số: 62.31.12.01
Họ và tên cán bộ hƣớng dẫn khoa học:
1/ PGS., TS.Dương Đăng Chinh
2/ TS. Phạm Văn Khoan
2011
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Luận án
Trong hơn 20 năm qua, quá trình đổi mới đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong việc tăng thu nhập và giảm đói nghèo ở Việt Nam. Tuy nhiên người
nghèo vẫn còn rất nhiều và giúp họ thoát nghèo là một trong những ưu tiên hàng
đầu của Chính phủ.
Xóa đói giảm nghèo (XĐGN) là một trong những chính sách xã hội cơ bản
của quốc gia hướng vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội để
họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
XĐGN được ưu tiên hàng đầu trong hoạch định và thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Phát triển kinh tế phải đồng thời với
XĐGN, nếu XĐGN không được giải quyết một cách vững chắc thì không một
mục tiêu nào về phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, ổn định xã hội, bảo đảm
quyền con người... được thực hiện. Giảm nghèo là góp phần giảm khoảng cách
chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các tầng lớp dân cư,
giảm nghèo chính là góp phần vào thúc đẩy quá trình hội nhập trong xu thế toàn
cầu hoá; giảm nghèo còn góp phần giữ vững và phát huy bản sắc, truyền thống
văn hoá tốt đẹp của dân tộc và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.
Trên bước đường phát triển và hội nhập với kinh tế thế giới, Việt Nam đang
đứng trước những thách thức lớn về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Trong
việc thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo có
nhiều công cụ chính sách khác nhau được sử dụng, trong đó công cụ tài chính
công (TCC) được xem là công cụ tác động có hiệu quả nhất tới tăng trưởng kinh
tế và giảm nghèo.
Những công trình đã nghiên cứu về xoá đói giảm nghèo không nhiều, tính
từ năm 1993 đến nay có 13 luận án nghiên cứu và phạm vi, mức độ nghiên cứu
cũng rất khác nhau. Một số công trình tiêu biểu, đó là: Luận án Tiến sĩ của TS.
3
Trần Đình Đàn(2001), “Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm xoá đói,
giảm nghèo ở Hà Tĩnh”; Luận án Tiến sĩ của TS. Nguyễn Trung Tăng (2002),
“Tín dụng cho người nghèo và các quỹ xoá đói, giảm nghèo”; Luận án Tiến sĩ của
TS. Lê Văn Bình (2009), “Quản lý Nhà nước về xoá đói, giảm nghèo vùng Bắc
Trung Bộ và duyên hải trung Bộ trong giai đoạn hiện nay”; Luận án Tiến sĩ của
TS. Nguyễn thị Hoa (2009), “Hoàn thiện chính sách xoá đói, giảm nghèo của Việt
Nam đến 2015"
Các công trình trên đây, ở góc độ và mức độ khác nhau đã tiếp cận, nghiên
cứu về các chính sách xoá đói, giảm nghèo của Việt Nam; tuy nhiên, chưa có
công trình nào nghiên cứu sâu cả về lý luận, thực tiễn, và đưa ra giải pháp cụ thể
đối với việc sử dụng các công cụ tài chính mà cụ thể là các công cụ tài chính công
đối với việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo. Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã
chọn đề tài: “Sử dụng công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo ở các
tỉnh miền núi phía Bắc” để nghiên cứu, thực hiện luận án tiến sĩ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu của luận án
Luận án tập trung vào khai thác 3 khía cạnh cơ bản sau đây
- Trình bày lý luận cơ bản, tổng quan về công cụ tài chính công, làm sáng
tỏ sự tồn tại tất yếu khách quan, vai trò của công cụ tài chính công nhằm mục tiêu
giảm nghèo. Tham khảo kinh nghiệm giảm nghèo của một số nước phát triển trên
thế giới, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình sử dụng các
công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo ở Việt Nam
- Đánh giá thực trạng sử dụng công cụ tài chính công để giảm nghèo của
Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1990 đến nay; qua đó làm rõ những mặt đã làm
được, những mặt còn hạn chế, tồn tại và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế để
làm căn cứ, cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp sử dụng công cụ tài chính công để
giảm nghèo ở Việt Nam.
- Đề xuất các quan điểm, mục tiêu giảm nghèo ở Việt Nam, trên cơ sở đó
đưa ra các giải pháp, lộ trình giảm nghèo bằng việc sử dụng các công cụ tài chính
công ở Việt Nam trong thời gian tới.
4
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào công cụ tài chính
công và việc sử dụng các công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo ở các
tỉnh miền núi phía Bắc. Tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế
giới; từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện việc sử dung công cụ tài chính công
nhằm muc tiêu giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong thời gian
tới.
Sử dụng các công cụ tài chính công (chính sách thuế, phí; đầu tư ngân sách;
tín dụng ưu đãi; trợ cấp, trợ giá;..) là một nội dung quan trọng thể hiện vai trò to
lớn và nhiều mặt của Nhà nước đối với quá trình giảm nghèo trong bối cảnh của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đã có nhiều phân tích về nguyên nhân của thành công và không thành công
xuất phát từ khía cạnh chủ quan cũng như khách quan. Chẳng hạn, sự thiếu đồng
bộ trong tài trợ; sự đáp ứng không đầy đủ nguồn vốn; các hiện tượng tiêu cực; sự
phối kết hợp giữa các ngành, các bộ phận chưa tốt; quản lý bất tài và yếu kém...
Luận án đi vào xem xét vấn đề theo một cách tiếp cận khác, đó là xem xét tác
động trực tiếp của các công cụ tài chính đến quá trình giảm nghèo, các công cụ tài
chính cũng chỉ là một phương tiện tác động nhằm đạt đến một mục tiêu cụ thể là
mục tiêu giảm nghèo . Do đó, nó chỉ có nghĩa là tổng thể những phương thức và
những yếu tố (khách quan và chủ quan) vận hành những phương thức này nhằm
phát huy những tác động tích cực của tài chính đối với quá trình giảm nghèo.
Xét đến cùng, những tác động của tài chính đối với quá trình giảm nghèo
chính là hệ quả của những chức năng tài chính. Cơ chế tác động của tài chính phải
xuất phát từ việc nhận thức những tác động khách quan vốn có của tài chính để
hoạch định và triển khai những phương thức thích hợp nhằm đạt được hiệu quả
tác động tối ưu.
Mỗi một công cụ tài chính công có tác động nhất định đến giảm nghèo. Ví
dụ như công cụ thuế, khác với những công cụ khác, chính sách thuế, phí là những
công cụ chủ yếu trong chính sách thu của Nhà nước. Thông qua chính sách thu có
5
phân biệt theo hướng ưu đãi cho những ngành nghề, sản phẩm nằm trong định
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà nhằm tới 2 tác động:
- Tạo một lực kéo bổ (cho lực tác động của thị trường) đối với việc phân bổ
nguồn lực cho các ngành nghề sản xuất - kinh doanh nhằm kiến tạo một cơ câú
kinh tế theo định hướng. Lực kéo này có thể tác động trực tiếp về phía cung bằng
những ưu đãi cho nhà đầu tư và cũng có thể tác động gián tiếp thông qua những
ưu đãi cho người tiêu dùng để tạo nên lực kéo của cầu.
- Nâng đỡ khả năng tự tích luỹ của người nghèo.
Do đó, cơ chế tác động của chính sách thuế, phí nói một cách khái quát là
thông qua các quyết định về đối tượng chịu thuế, phí; về phạm vi đánh thuế, thu
phí; các mức thuế suất (hoặc mức phí) phân biệt đối với từng đối tượng, quy định
miễn giảm và các ưu đãi khác nhằm tạo động lực thúc đẩy và định hướng quá
trình chuyển dịch cơ cấu tính tế (CCKT) nhằm mục tiêu giảm nghèo.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án tác giả đi vào phân tích tác động
trực tiếp của một số công cụ chủ yếu có thể định lượng tác động tới kết quả giảm
nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc, công cụ chi ngân sách, tín dụng nhà nước và
Bảo hiểm cho người nghèo.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án đã áp dụng tổng hợp các phương pháp: Phương pháp thống kê,
tổng hợp, phân tích, lịch sử, phát triển, so sánh, đối chiếu trong quá trình nghiên
cứu. Các phương pháp này dựa trên nền tảng của phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
5. Những đóng góp của luận án
- Trên phương diện lý luận: Hệ thống hoá, tổng quan những lý luận cơ bản
về công cụ tài chính công và việc sử dung công cụ tài chính công dể giảm nghèo ở
các tỉnh miền núi phía bắc. Phân tích và đánh giá có căn cứ khoa học về thực
trạng sử dung các công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo ở các tỉnh
miền núi phía bắc Việt Nam.
6
- Trên phương diện thực tiễn: Đề xuất những giải pháp nhằm sử dụng có
hiệu quả các công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo ở các tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam thời gian tới.
6. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, danh mục các bảng và đồ
thị, Luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về sử dụng công cụ tài chính công trong giảm
nghèo và kinh nghiệm quốc tế.
Chương 2: Thực trạng sử dụng các công cụ tài chính công nhằm thực hiện
mục tiêu giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn từ năm 1990 đến nay.
Chương 3: Các giải pháp sử dụng công cụ tài chính công thúc đẩy công
cuộc giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
7
CHƢƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG CÔNG CỤ TÀI
CHÍNH CÔNG TRONG GIẢM NGHÈO VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1.1. Nghèo và vai trò của Nhà nƣớc trong cuộc đấu tranh giảm nghèo
1.1.1. Nhận thức chung về nghèo
Trên thế giới, vấn đề nghèo đói được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau
với các nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Tại Hội nghị về chống đói nghèo do Uỷ ban
kinh tế - xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Băng
Cốc (Thái Lan) tháng 9 năm 2003, các quốc gia trong khu vực đó thống nhất cho
rằng: "Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả
mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận, tuỳ theo
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương".
Đây là khái niệm tương đối đầy đủ về nghèo đói.
1.1.1.1. Các khái niệm và thước đo về nghèo
Có ba khía cạnh liên quan mật thiết với nhau để mô tả tình trạng sống của
con người, bao gồm : nghèo ; bất bình đẳng trong phân phối thu nhập tiêu dùng và
trong các lĩnh vực khác ; tình trạng dễ bị tổn thương. Tập trung vào nghiên cứu
nghèo, phần này của luận án chỉ đề cập tới sự liên quan giữa hai khía cạnh đầu.
Khái niệm và thước đo nghèo: Nghèo bao gồm nhiều mặt, thay đổi tuỳ theo
địa điểm, thời gian. Tuy nhiên, có những khái niệm chung dựa trên những thước đo
về tình trạng nghèo khác nhau.
Nghèo theo thước đo thu nhập: Một người được coi là nghèo khi mức tiêu
dùng hay thu nhập của người đó thấp hơn ngưỡng tối thiểu thiết yếu để đáp ứng
nhu cầu cơ bản, ngưỡng tối thiểu đó được gọi là “chuẩn nghèo”. Tuy nhiên, mức
độ thiết yếu để thoả mãn nhu cầu cơ bản lại thay đổi theo thời gian và không gian.
Vì vậy, chuẩn nghèo cũng thay đổi theo thời gian, địa điểm và mỗi nước sử dụng
chuẩn nghèo riêng phù hợp với trình độ phát triển, các chuẩn mực và giá trị của
xã hội mình. Vì vậy, có thể đưa ra hai khái niệm chung về nghèo dưới đây:
Nghèo tuyệt đối : Đo lường số người có thu nhập dưới một ngưỡng nhất định
hoặc một số hộ gia đình không có đủ tiền để chu cấp cho những hàng hoá và dịch
8
vụ thiết yếu nhất định là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả
mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (ăn, mặc, nhà ở thích
hợp, nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường, chăm sóc y tế, giáo dục).
Chuẩn nghèo tuyệt đối của thế giới do Ngân hàng thế giới (WB) xác định là
1 USD và 2USD mỗi ngày mỗi người tính theo ngang giá sức mua (PPP) năm
1993. Ngưỡng 1USD/ngày/người thường được sử dụng cho các nước kém phát
triển, chủ yếu là châu Phi; ngưỡng 2USD/ngày/người được dùng cho các nền kinh
tế có mức thu nhập trung bình như Đông Á, Mỹ Latinh1
.
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng tại địa phương, ở một thời kỳ nhất định. Đo lường quy
mô, theo đó một hộ gia đình được coi là nghèo nếu nguồn tài chính của họ thấp
hơn một ngưỡng thu nhập được xác định là chuẩn nghèo của bình quân đầu người
trong một nền kinh tế. Chẳng hạn, năm 2001, ở EU, những người được coi là
nghèo khi có thu nhập ít hơn 60% mức thu nhập trung bình đầu người. Tuy nhiên,
chuẩn nghèo tương đối theo cách đo như vậy trên thực tế phản ánh rất ít mức sống
của con người do khi thu nhập đồng loạt tăng hoặc giảm thì tỷ lệ người nghèo vẫn
không đổi mặc dù thu nhập của họ có thay đổi. Vì vậy, trong ngưỡng nghèo tương
đối có pha trộn cả vấn đề phân phối thu nhập. Vì vậy trên thực tế, không có sự
phân định rõ ràng giữa nghèo và giàu nên ngưỡng nguy cơ nghèo cũng hay được
dùng thay cho ngưỡng nghèo tương đối.
Chỉ số nghèo con người: Trong một vài thập kỷ gần đây đã xuất hiện cách
tiếp cận rộng và nhiều hơn so với thước đo thu nhập đối với tình trạng nghèo của thế
giới (1USD hay 2 USD mỗi ngày/người), trong đó bên cạnh chỉ tiêu thu nhập các chỉ
tiêu xã hội cũng được tính đến - như cơ hội được đào tạo, mức sống, quyền tự quyết
định, ổn định về luật, khả năng ảnh hưởng tới những quyết định chính trị; gần đây
trong “Báo cáo phát triển thế giới 2004” WB còn đưa thêm bên cạnh các yếu tố
1 Nguồn tài liệu : báo cáo World Bank 1995
9
quyết định khách quan cho sự nghèo là những yếu tố chủ quan như phẩm chất và
lòng tự trọng.
Chỉ số nghèo con người (Human Poverty Index - HPI) của Liên Hợp Quốc
(UN) là một chỉ tiêu đo lường mức sống của một thước đo UN xây dựng, ngoài
nhân tố thu nhập còn đưa thêm các nhân tố về mù chữ, suy dinh dưỡng của trẻ em,
chết sớm, dịch vụ y tế nghèo nàn, thiếu khả năng tiếp cận với nước sạch. Đối với
các nước phát triển, UN cho rằng HPI phản ánh tốt hơn so với chỉ số phát triển con
người (HDI) về mức độ nghèo cùng cực. các công thức tính HPI như sau2
:
+ HPI cho các nước đang phát triển (HPI-1): Đó là chỉ số tổng hợp đo
lường tình trạng nghèo cùng cực theo ba khía cạnhcủa HDI - sống thọ và sống
khoẻ mạnh, kiến thức và sống khá. Công thức tính HPI như sau:
HPI – 1 = [ 1
3
(Pα
1 + Pα
2 + Pα
3 ]
1
α
Trong đó, P1 là xác suất của việc không sống sót qua tổi 40 ( nhân với 100)
kể từ khi sinh; P2 là tỷ lệ người lớn mù chữ; P3: trung bình không tính trọng số
của dân số không có khả năng tiếp cận ổn định tới nguồn nước tốt hơn và trẻ em
thiếu cân tính theo lứa tuổi; và α = 3.
+ HPI cho một số nước OECD chọn lọc (HPI-2): Đó là một chỉ số tổng hợp
đo lường tình trạng nghèo cùng cực theo ba khía cạnh của HDI - sống thọ và sống
khoẻ mạnh,kiến thức và sức sống khá - và cũng đo lường cả tình trạng bị loại trừ
v khía cạnh xã hội. Công thức tính như sau:
HPI - 2 = [ 1
4
(Pα
1 + Pα
2 +Pα
3) ]
1
α
Trong đó, P1 là xác suất của việc không sống sót qua tuổi 60 (nhân với 100)
kể từ khi sinh; P2 là tỷ lệ người lớn thiếu các kỹ năng đọc theo chức năng; P3: dân
số sống dưới chuẩn nghèo tính theo thu nhập ( 50% mức thu nhập khả dụng đã
2 Nguồn : Tài Liệu Xuất bản Liên Hợp Quốc
10
điều chỉnh trung bình của hộ gia đình); P4: tỷ lệ thất nghiệp dài hạn (12 tháng trở
lên); và α = 3.
Các thước đo về sự bất bình đẳng: Đo lường sự bất bình đẳng trong phân phối
thu nhập giữ vai trò quan trọng trong phân tích và đánh giá tình trạng nghèo. Các
thước đo chủ yếu như sau:
(1) Hệ số Gini: đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối. Hệ số này được
xác định như một tỷ số với giá trị nằm trong khoảng từ 0 tới 1, trong đó tử số là
diện tích nằm giữa đường cong phân phối Lorenz và đường bình đẳng tuyệt đối
(đường phân giác); mẫu số là tổng diện tích mà dưới đường bình đẳng tuyêt đối.
Chỉ số Gini là hệ số Gini được thể hiện ở dạng phần trăm và bằng hệ số
Gini nhân với 100. Một hệ số bất lợi của hệ số Gini là không phân rã được; do đó,
hệ số Gini tổng thể, ví dụ của toàn xã hội, không bằng tổng Gini của các nhóm
tổng thể đó.
Một cách ước lượng hệ số Gini khi chúng ta có thông tin tỷ lệ dân số chia
theo mức khác nhau của chi tiêu trung bình đầu người như sau:
Gini = 2
i = N
i = 1
[(1
2
(Pi + Pi+1) -
1
2
(Xi + Xi+1))(Pi+1 - Pi) ]
Trong đó Pi
là tỷ lệ tích luỹ của dân số trong khoảng Y và Xi
là tỷ lệ tích
luỹ của chi tiêu trong khoảng i. Giá trị đầu tiên trong ngoặc đơn lớn là độ cao của
mỗi phần chia, từ đường chéo tới đường Lorenz, trong đó có giá trị cuối cùng
trong ngoặc đơn là nhỏ là “ độ rộng” của mỗi phần chia.
(2) Chỉ số Theil: là số thống kê đo lường của sự bất bình đẳng kinh tế do
nhà toán thống kê Henri Theil xây dựng công thức sau:
T= 1
N
( Xi
X
ln Xi
X
)
Trong đó Xi
là thu nhập của người thứ i, X =
1
N
i = 1
i = N
Xi
là thu nhập trung
bình, và N là số người. Số hạng đầu bên trong dấu ngoặc là tỷ trọng thu nhập cá
11
nhân i trong tổng thu nhập và số hạng thứ hai là thu nhập của cá nhân đó so với
thu nhập trung bình. Nếu tất cả mọi người đều có thu nhập như nhau ( nghĩa là
bằng thu nhập trung bình) thì khi đó, chỉ số này bằng 0. Nếu 1 người có tất cả thu
nhập thì khi đó chỉ số này bằng LnN.
Một ưu điểm của chỉ số theil là có thể phân rõ được, theo nghĩa đó tổng
bình quân gia quyền của sự bất bình đẳng trong các nhóm, Ví dụ, sự bất bình đẳng
của nước Mỹ là tổng bình quân gia quyền của sự bất bình đẳng giữa thu nhập của
từng bang so với toàn bộ nước Mỹ. Cách tính như sau: nếu dân số của một nước
chia thành m nhóm k, Tk
là chỉ số Theil của nhóm đó, và X k là thu nhập trung
bình trong nhóm k, thì chỉ số Theil la:
T= SkTk +
i = 1
i = m
Skln
X k
X
Vì vậy, ta có thể nói rằng 1 nhóm dân số “đóng góp” vào lượng bất bình
đẳng của cả nước.
(3) Tỷ số giữa thu nhập tiêu dùng của 20% dân số giàu nhất và 20% dân số
nghèo nhất của một nước là tỷ số trong tử số và thu nhập/tiêu dùng trên đầu người
của nhóm người nghèo nhất. Cũng có thể thay 20% bằng con số % khác, ví dụ 5%
hay 10%. Đây là một đại lượng sử dụng rất phổ biến ở cả nước phát triển và đang
phát triển.
Hạn chế của thước đo xác định sự bất bình đẳng này là bỏ ra thu nhập/tiêu
dùng của 60% dân số có mức thu nhập/tiêu dùng trung bình và nó không tính đến
sự thu nhập /tiêu dùng trong các nhóm người nghèo nhất.
(4) tỷ trọng thu nhập/tiêu dùng của x% người nghèo nhất
Một điểm bất lợi của hệ số Gini và chỉ số Theil là chúng thay đổi khi phân
phối thu nhập, bất kể sự thay đổi đó xảy ra ở nhóm thu nhập nào, có nhóm thu
nhập cao nhất, trung bình hay thấp nhất (chúng thay đổi khi có bất cứ sự chuyển
giao thu nhập nào giữa hai cá nhân).Vì vậy, chỉ tiêu đo lường tỷ trọng thu nhập
của x%, ví dụ 20%, người nghèo nhất.
12
Thực tế cho thấy tình trạng dễ bị tổn thương trước nạn đói hay lũ lụt, thiếu
vệ sinh, dễ bị nhiễm bệnh, chế độ ăn thiếu dinh dưỡng và không có khả năng tiếp
cận tới giáo dục là những dấu hiệu đói nghèo, tương tự như tình trạng nghèo cùng
cực về vật chất; Do vậy, trong nhiều trường hợp, biện pháp cung cấp các dịch vụ
xã hội và cơ sở cho người nghèo còn giúp họ nhiều hơn trong việc thoát nghèo so
với chỉ đơn thuần tăng thu nhập của họ.
Các quan niệm về nghèo đói nêu trên phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của
người nghèo: Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành
cho con người, có mức sống thấp hơn mức sống của cộng đồng và thiếu cơ hội
lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Như vậy, nghèo đói là khái niệm động, mang tính chất tương đối cả về
không gian và thời gian. Nghèo tuyệt đối biểu hiện chủ yếu thông qua tình trạng
một bộ phận dân cư do thu nhập thấp, không cho phép thoả mãn các nhu cầu tối
thiểu của bản thân con người, trước hết là ăn - gắn liền với dinh dưỡng. Nghèo
tương đối lại gắn với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân cư khi so
sánh với mức sống trung bình của cộng đồng địa phương trong một thời kỳ nhất
định, phản ánh sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và vị trí xã hội. Do đó,
nhiều nhà khoa học cho rằng chỉ có thể xoá dần nghèo tuyệt đối, còn nghèo tương
đối là hiện tượng luôn có trong xã hội, vấn đề cần quan tâm là rút ngắn khoảng
cách chênh lệch giàu, nghèo và hạn chế sự phân hoá giàu, nghèo.
1.1.1.2. Chuẩn nghèo đói ở Việt Nam
Chuẩn nghèo có thể hiểu là mức độ, giới hạn về mặt lượng của tiêu chí
dùng để xác định nghèo đói, nếu người nào có mức thu nhập thấp hơn mức thu
nhập do Nhà nước quy định về nghèo đói thì họ là người nghèo, nếu vượt qua giới
hạn đó, họ không phải là người nghèo. Giữa chuẩn nghèo và tỷ lệ hộ nghèo có
quan hệ thuận chiều, nếu chuẩn nghèo cao thì tỷ lệ hộ nghèo cao và ngược lại.
Trong nhiều tài liệu của Việt Nam, khái niệm về nghèo đói của thế giới được
vận dụng vào nước ta có phần linh hoạt hơn. Chẳng hạn, đối với thế giới, nghèo
tuyệt đối còn có nghĩa là người dân bị bần cùng hoá, bị tước bỏ các cơ hội và khả
13
năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu. ở Việt Nam, khái niệm nghèo
tuyệt đối được giải thích dễ hiểu hơn bằng khái niệm đói, do bất trắc hoặc do khả
năng thoả mãn quá thấp của kinh tế, tức là nghèo lương thực, thực phẩm. Còn
nghèo tương đối cũng được hiểu theo nghĩa tích cực, khác với nghĩa bất bình đẳng
trong phân phối và hưởng thụ. Hơn nữa, vấn đề nghèo đói cũng được nghiên cứu
ở các cấp độ cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng.
Nghèo đói có nguồn gốc căn nguyên từ kinh tế, song với tư cách là hiện
tượng tồn tại phổ biến ở các quốc gia trong tiến trình phát triển, nghèo đói và sự
phân hoá giàu, nghèo thực chất là hiện tượng kinh tế - xã hội. Trong sự phát
sinh, diễn biến của vấn đề nghèo đói, nhân tố chính trị và văn hoá có phần tác
động ảnh hưởng đến thực trạng, xu hướng và cách thức giải quyết vấn đề đói
nghèo. Điều này thể hiện từ trong sự vận động nền kinh tế thị trường, của những
biến đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đặc
điểm này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, là cơ sở của việc tìm
kiếm các giải pháp giảm nghèo (GN) ở nước ta và xây dựng một hệ thống giải
pháp tài chính công nhằm nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện mục tiêu giảm
nghèo.
Xuất phát từ chỗ thu nhập là cơ sở kinh tế quyết định mức sống của mỗi cá
nhân hay hộ gia đình, do đó việc lựa chọn chuẩn nghèo được căn cứ vào mức thu
nhập của mỗi cá nhân hay hộ gia đình. Thước đo này quan tâm đến phân phối thu
nhập mà từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong thời gian nhất định,
không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập hay môi trường sống của dân cư.
Ở Việt Nam, những năm qua chúng ta đã sử dụng 2 loại tiêu chí để xác
định chuẩn nghèo, theo đó tồn tại song song hai chuẩn nghèo dùng làm căn cứ để
đánh giá tình trạng phân tầng xã hội: Một là, chuẩn nghèo do Tổng cục Thống kê
và Ngân hàng thế giới đưa ra để đánh giá nghèo đói trên giác độ vĩ mô, dựa theo
mức chi tiêu tháng qua các cuộc điều tra mức sống dân cư. Hai là, chuẩn nghèo
do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đưa ra để áp dụng trong công tác XĐGN,
theo tiêu chí thu nhập bình quân đầu người.
14
Ngày 8 tháng 4 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 10/2005/QĐTTg "về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 -
2010". Quy định về chuẩn nghèo đói của nước ta giai đoạn 1993 - 2010 được xác
định theo Bảng 1.1.
Bảng 1.1.
QUY ĐỊNH VỀ CHUẨN NGHÈO ĐÓI CỦA VIỆT NAM
Chuẩn nghèo
qua các giai đoạn
Phân loại ngƣời nghèo đói
Mức thu nhập bình
quân ngƣời / tháng
1993 - 1995
(Mức thu nhập quy
ra gạo)
Đói (Khu vực nông thôn) Dưới 8 kg
Đói (Khu vực thành thị) Dưới 15 kg
Nghèo (khu vực nông thôn) Dưới 15 kg
Nghèo (khu vực thành thị) Dưới 20 kg
1996 - 2001
(Mức thu nhập quy
ra gạo tương đương
với số tiền)
Đói (Tính cho mọi khu vực) Dưới 13 kg (45.000đ)
Nghèo (Khu vực nông thôn
miền núi, hải đảo) Dưới 15 kg (55.000đ)
Nghèo (khu vực nông thôn
đồng bằng, trung du)
Dưới 20kg (20.000đ)
Nghèo (Khu vực thành thị) Dưới 25 kg (25.000đ)
2001 - 2005
(Mức thu nhập
bằng tiền)
Nghèo (Khu vực nông thôn,
miền núi, hải đảo) Dưới 80.000 đồng
Nghèo (khu vực nông thôn
đồng bằng, trung du) Dưới 100.000 đồng
Nghèo (Khu vực thành thị) Dưới 150.000 đồng
2006 - 2010
(Mức thu nhập tính
bằng tiền)
Nghèo (khu vực nông thôn). Dưới 200.000 đồng
Nghèo (Khu vực thành thị) Dưới 260.000 đồng
15
Nguồn: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
Trong thực tế, ngoài các tiêu chí là thước đo định lượng, căn cứ những tiêu
chí định tính khác như mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người, đây là
tiêu chí được coi là chỉ số đánh giá trính độ phát triển của một nước ở một thời kỳ
nhất định. Vì vậy, ở nước ta nghèo đói không chỉ được biểu hiện ở các chỉ tiêu
dinh dưỡng và quyền sở hữu tài sản, mà phải quan niệm và hiểu rộng hơn như
chất lượng cuộc sống, mức sống. Do vậy, để thật sự XĐGN, cần phải thực hiện
hàng loạt yêu cầu, không chỉ trong sản xuất mà còn trong các dịch vụ xã hội khác.
1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến nghèo
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói như: Thiếu kinh
nghiệm làm ăn, thiếu sức lao động, đông người ăn theo, thiếu vốn, thiếu đất sản
xuất, ốm đau tàn tật, do thiên tai rủi ro... các nguyên nhân này có sự khác nhau
nếu so sánh ở các vùng miền khác nhau
Bệnh tật và sức khoẻ kém cũng là một nguyên nhân đẩy con người vào tình
trạng nghèo đói trầm trọng. Vấn đề bệnh tật và sức khoẻ kém ảnh hưởng trực tiếp
đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo, làm họ rơi vào vòng luẩn quẩn của đói
nghèo mà người ta thường gọi là "bẫy nghèo". Họ phải gánh chịu hai gánh nặng:
một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi phí cao cho việc Khám
chữa bệnh (KCB), kể cả chi phí trực tiếp và gián tiếp. Do vậy chi phí khám chữa
bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ đến chỗ vay mượn, cầm cố tài
sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng càng có ít cơ hội cho người
nghèo thoát khỏi vòng đói nghèo, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ phòng bệnh (
nước sạch, các chương trình y tế....) của người nghèo bị hạn chế và làm tăng khả
năng bị mắc bệnh của họ..
Ở hầu hết các địa bàn đặc biệt là vùng núi người ta đề cập đến cải thiện cơ
sở hạ tầng và tiếp cận các dịch vụ cơ bản. Người dân cũng nhấn mạnh rằng một số
người vẫn nghèo dai dẳng và đối với một số khác thì việc thoát nghèo rất mong
manh và có xu hướng kém đi. Trên tất cả các địa bàn hàng loạt các vấn đề môi