Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Sản xuất thử giống mía VN84-422 và VN85-1427
PREMIUM
Số trang
90
Kích thước
2.3 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
897

Sản xuất thử giống mía VN84-422 và VN85-1427

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Bé n«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n

Trung t©m nghiªn cøu vµ ph¸t triÓn mÝa ®−êng

_________________________________________________________

B¸o c¸o tæng kÕt dù ¸n SXTN ®éc lËp cÊp nhµ n−íc

M∙ sè DA§L 2003/06

S¶n xuÊt thö

gièng mÝa VN84-4137 vµ vn85-1427

Chñ nhiÖm dù ¸n: TS. §ç ngäc diÖp

6224

29/11/2006

Hµ Néi – 2006

TÓM TẮT

Dự án sản xuất thử giống mía VN84-422 và VN85-1427 thuộc Dự án sản

xuất thử nghiệm độc lập cấp Nhà nước giai đoạn 2001 – 2005 được thực hiện từ

tháng 01/2003 đến tháng 12/2005 tại 10 tỉnh (Đăk Nông, Bình Thuận, Đồng Nai,

Tây Ninh, Bình Dương, Long An, Bến Tre, Hậu Giang, Sóc Trăng và Kiên Giang)

thuộc 3 vùng sinh thái Tây Nguyên, Đông Nam bộ và Tây Nam bộ.

Kết quả Dự án đã sản xuất được 100.000 cây con nuôi cấy mô sạch bệnh và

đồng nhất (giống cơ bản), 205 tấn giống kiểm định và 1059 tấn giống cấp 1 đạt tiêu

chuẩn song song với việc hoàn thiện quy trình nhân nhanh giống mía sạch sâu bệnh

3 giai đoạn và quy trình thâm canh hai giống mía VN84-422 và VN85-1427 cho 3

vùng sinh thái Tây Nguyên, Đông Nam bộ và Tây Nam bộ. Trên cơ sở đó, Dự án đã

xây dựng được 10 mô hình thâm canh (1 mô hình/tỉnh), trong đó có 7 mô hình đạt

năng suất >132 tấn 10 CCS /ha (đạt yêu cầu năng suất >120 tấn/ha và >11 CCS).

Riêng các mô hình tại Bình Thuận, Đồng Nai và Bình Dương chỉ đạt yêu cầu về

chất lượng, không đạt yêu cầu về năng suất vì không có điều kiện tưới bổ sung đầy

đủ trong mùa khô. Như vậy, đối với chân đất gò cao, không tưới bổ sung trong mùa

khô, khả năng cho năng suất của cả 2 giống đều bị hạn chế, chỉ đạt 80 – 82 tấn/ha

đối với VN84-422 và 83 – 90 tấn/ha đối với VN85-1427. Tuy nhiên, năng suất của

2 giống VN84-422 và VN85-1427 trong điều kiện không tưới vẫn vượt xa so với

năng suất bình quân trong sản xuất đại trà (55 tấn/ha).

Ở một số vùng đất thấp Tây Nam bộ, chất lượng của hai giống VN84-422 và

VN85-1427 không cao, cụ thể VN84-422 chỉ đạt >10,5 CCS ở Sóc Trăng, Kiên

Giang và VN85-1427 chỉ đạt >10 CCS ở Kiên Giang. Tuy vậy, chất lượng của cả 2

giống đều được người trồng mía chấp nhận.

VN84-422 có ưu thế về tăng trưởng, mọc mầm, khả năng trỗ cờ, chống chịu

đổ ngã; ít nhiễm sâu bệnh; hàm lượng đường cao ở đầu vụ; năng suất cao; đặc biệt

là thích nghi được chân đất phèn trũng nhưng giống có nhược điểm đẻ nhánh ít, dễ

mất gốc trên đất gò cao, không tưới. VN85-1427 có ưu điểm về chất lượng tốt (kể

cả ở đầu vụ ép) và ổn định, năng suất cao, mọc mầm nhanh, đẻ nhánh mạnh, lưu

gốc và biểu hiện chịu hạn tốt, thích nghi với chân đất phèn thoát nước tốt, ít đổ ngã,

ít mẫn cảm sâu bệnh, nhất là các bệnh trên lá nhưng dễ nhiễm rầy, rệp sáp, trỗ cờ

khá, dễ mọc rễ thân, vươn lóng chậm trong giai đoạn đầu.

VN84-422 và VN85-1427 đều tỏ ra thích hợp với các vùng sinh thái Tây Nguyên,

Đông Nam bộ, Tây Nam bộ, đặc biệt trong điều kiện thâm canh cao, đủ nước, giống phát

huy tốt tiềm năng cho năng suất và chất lượng cũng như gia tăng hiệu quả kinh tế.

1

BÁO CÁO TỔNG KẾT KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

DỰ ÁN SẢN XUẤT THỬ NGHIỆM CẤP NHÀ NƯỚC

TÊN DỰ ÁN: SẢN XUẤT THỬ GIỐNG MÍA

VN84-422 VÀ VN85-1427

PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề

Trên thế giới, từ lâu công tác nghiên cứu giống mía đã được quan tâm

thường xuyên. Chính nhờ vào các giống mía mới có năng suất cao, giàu đường,

chống chịu tốt các điều kiện bất lợi của tự nhiên mà nền sản xuất mía đường ở Úc,

Braxin, Ấn Độ, Đài Loan, Thái Lan,… đã phát triển mạnh và có hiệu quả cao.

Ở Ấn Độ, năm 1993 có 65 giống mía được đưa vào sản xuất theo cơ cấu

giống chín sớm, chín trung bình và chín muộn làm gia tăng năng suất, đạt 68,4

tấn/ha ở vụ mía 1998 – 1999. Mục tiêu của Ấn độ đưa năng suất lên 100 tấn/ha trên

diện tích 4,15 triệu ha vào năm 2020 (Singh and Sinha 1992 [73], Baboo, 1993 [33]

và Buzzanell 1996 [40]).

Ở Đài Loan, trong thời gian qua và hiện nay, các giống mía mới ROC có

năng suất cao giàu đường, thời gian chín khác nhau và đặc tính canh tác khác nhau

được đưa vào sản xuất thay thế hết các giống mía cũ 10 năm 1 lần đã góp phần đưa

Đài Loan thành nước có ngành sản xuất mía đường phát triển (Taiwan Sugar

Research Institute, 2000 – 2001) [79].

Công tác nghiên cứu giống mía ở nước ta trong thời gian qua, kể từ thời kỳ

đổi mới (năm 1986) cho đến nay đã có những kết quả đáng kể, đặc biệt là sau khi có

Chương trình 1 triệu tấn đường ra đời (năm 1995). Từ kết quả các chương trình, đề

tài, dự án nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ đã tuyển chọn được các giống mía sản

xuất từ nguồn giống nhập nội như ROC10, ROC16, K84-200, QĐ11, VĐ86-368,

R570,…và từ nguồn giống được tạo chọn trong nước là VN84-4137, VN84-422,

VN85-1427, VN85-1859,... Thông qua các chương trình khuyến nông, phát triển

sản xuất giống, diện tích các giống mía mới trong cơ cấu ngày càng nâng cao, đã

góp phần tăng năng suất chất lượng mía từ 42,8 tấn/ha; 9,2 CCS ở vụ mía 2001 –

2

2002 lên 48,6 tấn/ha; 9,9 CCS ở vụ mía 2002 – 2003. Tuy nhiên, so với các nước

trồng mía khác ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới, năng suất và chất lượng

mía ở nước ta vẫn còn ở mức khá thấp. Điều này đòi hỏi công tác nghiên cứu giống

mía phải được quan tâm, đầu tư nhiều hơn nữa vì hầu hết các vùng mía nguyên liệu

tập trung vẫn còn thiếu giống mía tốt, chưa có cơ cấu giống hợp lý cũng như chưa

thiết lập được hệ thống sản xuất và cung cấp mía giống đạt tiêu chuẩn.

Để ngành mía đường có thể tồn tại và phát triển, đem lại hiệu quả cao trong

thời gian tới thì việc bổ sung và mở rộng diện tích các giống mía mới có năng suất

cao, chất lượng tốt, hoàn thiện các quy trình về nhân giống mía sạch sâu bệnh, kỹ

thuật thâm canh mía cũng như chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật này đến cán bộ

khuyến nông, người trồng mía và góp phần xây dựng cơ cấu giống hợp lý cho từng

vùng mía nguyên liệu là rất cấp thiết. Xuất phát từ các cơ sở trên cũng như để kế

thừa và chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ đã được

đánh giá và nghiệm thu về 2 giống mía mới VN84-422 và VN85-1427 tại các vùng

sinh thái Tây Nguyên, Đông Nam bộ và Tây Nam bộ (Viện Nghiên cứu Mía

Đường, tháng 8/2000 [25]; 2001 [26] và tháng 3/2002 [27]) (2 giống VN84-422 và

VN85-1427 đã được công nhận tạm thời ở các tỉnh phía Nam theo Quyết định số

3295 QĐ/NN-KHCN do Thứ Trưởng Nguyễn Quang Hà ký ngày 15/11/2000), Dự

án sản xuất thử giống mía VN84-422 và VN85-1427 được tiến hành nhằm phổ biến

giống mía mới đi kèm kỹ thuật canh tác thích hợp cho sản xuất, góp phần thực hiện

các yêu cầu trên.

2. Mục tiêu của Dự án

- Hoàn thiện quy trình nhân giống mía sạch sâu bệnh ba giai đoạn và kỹ thuật

thâm canh mía.

- Mở rộng diện tích nhân 2 giống mía VN84-422 và VN85-1427 có năng suất

và chất lượng cao.

- Đào tạo và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật về nhân giống và kỹ thuật

thâm canh mía cho cán bộ kỹ thuật của các nhà máy đường và nông dân trồng mía.

- Giảm nhẹ tình hình sâu bệnh hại, góp phần tăng năng suất và chất lượng

mía, tạo sức cạnh tranh và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho ngành mía đường.

3

PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH CỦA BÁO CÁO

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước

1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước

Giai đoạn trước năm 1986, công tác nghiên cứu cây mía nói chung, giống

mía nói riêng ở nước ta chủ yếu mang tính chất thừa kế các thành tựu khoa học trên

thế giới, thăm dò và ứng dụng thực nghiệm. Các đề tài nghiên cứu về giống chủ yếu

tập trung vào việc điều tra, thu thập, xây dựng tập đoàn quỹ gen và bước đầu tiến

hành lai tạo. Mặc dù đã có một số giống mía mới được kết luận, bổ sung vào sản

xuất, song cơ cấu giống mía ở các vùng, miền trên cả nước vẫn còn rất đơn điệu và

chủ yếu bao gồm các giống mía địa phương, các giống nhập nội cũ như POJ28-78,

POJ30-16, NCo310, F134, VĐ54-134, F146, Co715,… một số dòng lai trong nước

gồm VN65, VN66, VN70, VN72 cũng được tạo ra nhưng công tác chọn dòng và

phóng thích giống vào sản xuất còn rất nhiều hạn chế. Nhìn chung, trong giai đoạn

này, năng suất và chất lượng thấp, sản xuất mía kém hiệu quả. Do vậy, diện tích và

năng suất mía bình quân cả nước gần như không tăng trong nhiều năm liên tục.

Công tác nghiên cứu giống mía ở nước ta trong thời gian kể từ thời kỳ đổi

mới (năm 1986) cho đến nay đã có những kết quả đáng kể, đặc biệt là sau khi có

Chương trình 1 triệu tấn đường ra đời (năm 1995). Các đề tài, dự án, chương trình

nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ về nghiên cứu giống mía ở thời kỳ này tập trung

vào các nội dung chính sau:

- Thu thập, nhập nội và trao đổi giống để bổ sung và đa dạng hóa nguồn gen

cây mía, xây dựng, bảo quản tập đoàn quỹ gen cây mía kết hợp đánh giá đặc điểm

hình thái, các đặc tính nông nghiệp và công nghiệp của giống.

- Lai tạo, chọn dòng, khảo nghiệm, khu vực hóa và phóng thích các giống

mía mới được tạo chọn trong nước (giống VN).

- Nghiên cứu tuyển chọn các giống mía mới, năng suất và chất lượng cao,

phù hợp với các vùng sinh thái từ nguồn giống lai tạo trong nước và nhập nội.

- Nghiên cứu các quy trình thâm canh đi kèm các giống mía mới.

- Nghiên cứu các phương pháp nhân nhanh (nuôi cấy mô, tách mầm, hom

một mắt mầm,…), xây dựng các quy trình sản xuất mía giống sạch sâu bệnh.

- Nghiên cứu xây dựng cơ cấu giống mía phù hợp, rải vụ, hiệu quả kinh tế

cao cho các vùng mía nguyên liệu tập trung.

4

- Phục tráng một số giống mía có tiềm năng cho năng suất và chất lượng cao

nhưng đã bị thoái hóa để tiếp tục sử dụng cho sản xuất như F134 cho phía Bắc và

Trung bộ, NCo310 cho Trung bộ, My5514 cho nhiều vùng mía trong cả nước, F156

cho Trung bộ và Đông Nam bộ, Comus cho Tây Nam bộ.

Từ kết quả các chương trình, đề tài, dự án nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ

kể trên, thông qua các chương trình khuyến nông, phát triển sản xuất giống, diện

tích các giống mía mới trong cơ cấu ngày càng nâng cao (trên 70% diện tích), nhờ

đó, năng suất, chất lượng mía cũng ngày càng được cải thiện (đạt năng suất bình

quân 51,8 tấn/ha trên diện tích 280000 ha trong vụ mía 2004/2005 so với năng suất

30 tấn/ha trước năm 1986, tiêu hao mía/đường là 9,9 trên diện tích 287000 ha trong

vụ mía 2003/2005 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2005) [2]). Cơ cấu

giống hợp lý cũng được khuyến cáo cho từng vùng mía nguyên liệu nhằm đảm bảo

rải vụ, kéo dài thời gian chế biến và đạt hiệu quả kinh tế cao, hài hòa cho cả người

chế biến và người trồng mía. Tính đến năm 2004, đã có 29 giống mía mới được

công nhận tạm thời hoặc chính thức cho các vùng mía trong cả nước, cụ thể là

C819-67, F154, Ja60-5, My5514, F156, Co6806, VN84-4137, CP34-79, VĐ81-

3254, ROC1, ROC10, VĐ63-237, VN72-77, VN84-196, VN84-2611, ROC16,

K84-200, QĐ11, R570, R579, VĐ79-177, VN84-422, VN85-1427, VN85-1859,

DLM24, ROC9, VĐ86-368, QĐ15 và ROC22 (Đỗ Ngọc Diệp, 2005(a) [4]; Đỗ Ngọc

Diệp, 2005(b) [5]). Tuy nhiên, hiện nay đa số các giống mía sản xuất kể trên đã bị

thoái hóa dẫn đến khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện bất lợi của môi trường

kém, năng suất và chất lượng thấp hoặc bộc lộ rõ nhược điểm như ROC10 bị bệnh

trắng lá, nhiễm sâu đục thân, nhiễm rệp, trỗ cờ sớm; các giống VĐ79-177 và VĐ86-

368 nhiễm bệnh than, ROC16 bị thối đỏ; K84-200 bị rệp hại; VĐ81-3254, ROC22,

R570 và R579 nhiễm sâu đục thân; VN84-4137 bị vàng và khô lá ở một số nơi ;…

trong khi yêu cầu đòi hỏi của sản xuất và chế biến về giống mía ngày càng cao,

đặc biệt trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay.

Có nhiều phương pháp nhân giống mía được biết đến như nhân bằng hom 2

hoặc 1 mắt mầm trồng thưa, trồng hom 1 – 2 mắt mầm (Có hoặc không ủ hom trước

khi trồng và trồng mía bầu (STP: phương pháp Space Transplanting của Ấn Độ),

chặt tỉa và nhân liên tục, tách nhánh, trồng thật dày (phương pháp Nhật Bản), hom

cả cây và chặt dần, trồng hàng kép, trồng thông thường kết hợp sử dụng hệ thống

5

các biện pháp kỹ thuật tối ưu như nuôi cấy mô tế bào (phương pháp in-vitro) (Lê

Song Dự và Nguyễn Thị Quý Mùi, 1997) [8]. Nuôi cấy in-vitro phục vụ mục đích

nhân nhanh giống mía đã được nhiều tác giả quan tâm (Phan Gia Tân, 1983 [15];

Nguyễn Văn Uyển, 1993 [19], 1994 [20]; Chu Thị Tý, Hồ Hữu Nhị và Mai văn

Quắc, 1994 [18]). Nhiều kết quả nghiên cứu đã khẳng định rằng cây mía có thể

được nhân dễ dàng bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào. Phương pháp này có rất

nhiều ưu điểm so với các phương pháp nhân khác như hệ số nhân giống rất cao

trong thời gian ngắn, có nghĩa là tạo được hàng triệu cây/năm (Nguyễn Văn Uyển,

1993 [19], 1994 [20]). Mặt khác, nhân giống mía bằng nuôi cấy in-vitro còn chủ

động được thời vụ, điều khiển được điều kiện môi trường sống và loại bỏ được

những yếu tố bất lợi của tự nhiên trong quá trình nhân giống, cây con sinh trưởng

mạnh, đẻ nhánh khỏe, độ đồng đều cây cao, đúng giống và sạch bệnh (Lê Trần

Bình, Hồ Hữu Nhị và Lê Thị Muội, 1997) [1]. Tuy nhiên, nó đòi hỏi kỹ thuật cao và

giá thành cũng cao. Do đó, phương pháp nhân mía giống để cung cấp cho sản xuất

hiện nay chủ yếu là nhân thông thường và trồng hàng kép.

Các nghiên cứu về quy trình kỹ thuật canh tác mía ở Việt Nam chủ yếu mang

tính chất nghiên cứu ứng dụng dựa trên cơ sở kế thừa thành tựu khoa học thế giới.

Cây mía khác với những cây trồng khác về độ dài sinh trưởng biến động theo vùng

và có tổ hợp gen lớn để giải thích cho sự khác nhau về khả năng hấp thu dinh

dưỡng, khả năng chống chịu sâu bệnh, sức sinh trưởng và tiềm năng cho năng suất,

chất lượng của giống. Vì sự khác nhau này, các thông tin về sự hấp thu dinh dưỡng

và kỹ thuật canh tác mía không phải lúc nào cũng có ý nghĩa, thậm chí trong một

vùng. Do đó, trong thời gian qua, đã có nhiều nghiên cứu trong nước được tiến

hành. Riêng các nghiên cứu về các yếu tố vi lượng hầu như không được công bố.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: Để đạt năng suất 70 – 80 tấn/ha cần bón N

cho vụ tơ 175 – 200 kg /ha, vụ gốc bón tăng 15 – 20% lượng này. Đạm không nên

chia nhỏ nhiều lần mà chia 3 lần bón với lượng bằng nhau vào lúc trồng, đẻ nhánh

và đầu thời kỳ làm lóng – vươn cao. Đối với mía gốc nên bón N vào 2 thời điểm là

khi xử lý gốc và đầu thời kỳ làm lóng – vươn cao. Lượng P được khuyến cáo bón

cho mía tối thiểu là 90 kg/ha. Cách bón lân thông thường là bón sâu lấp kín và chỉ

bón một lần, lót vào rãnh mía khi trồng hoặc bón vào rãnh cày xả một trong hai mép

của hàng mía rồi cày lấp đất. Lượng K thích hợp là 120 – 150 kg/ha. Cách bón K

6

cũng như bón N, bón sâu và lấp kín, chia làm 2 lần bón: lót 50 % và thúc ở đầu thời

kỳ làm lóng 50 %. Đối với mía gốc, bón K lần đầu khi cày xả xử lý gốc và lần 2 lúc

mía bắt đầu làm lóng. Thông thường đối với mía, bón phân chuồng 10 – 20 tấn/ha

vào lúc trồng, không bón cho vụ gốc. Các thí nghiệm bón bùn lọc trên đất cát bạc

màu cho thấy với nền N-P-K có bón 10, 15 và 20 tấn bùn lọc năng suất mía lần lượt

là 54,4; 62,1 và 67,9 tấn/ ha so với nền N-P-K không bón bùn lọc có năng suất mía

là 48,6 tấn/ ha (Nguyễn Huy Ước, 1994) [21]. Để đạt được năng suất 60 tấn/ha trên

đất xám bạc màu Đông Nam bộ, canh tác nhờ nước trời trong điều kiện 6 tháng mùa

khô và 6 tháng mùa mưa trong năm, lượng N-P-K cần bón là 150, 70, 150 kg/ha

(Viện Nghiên cứu Mía Đường, 1995) [22]. Lượng phân bón hiện đang được khuyến

cáo cho vùng Đông Nam bộ là phân hữu cơ 10 – 20 m3

/ha, vôi 1 tấn/ha, đạm 180

kg/ha, lân 90 kg/ha và kali 180 kg/ha đối với vụ tơ; vụ gốc bón tương tự vụ tơ riêng

vôi không bón, phân hữu cơ có thể không hoặc bón ít và lượng đạm tăng từ 10 –

15% so với vụ tơ (Viện Nghiên cứu Mía Đường, 2000) [24]. Đối với vùng đất phèn

Tiền Giang, lượng phân bón được khuyến cáo là 250 kg N, 100 kg P2O5 và 150 kg

K2O (Nguyễn Văn Hà, 1991) [10]. Trên loại đất xám điển hình (Haplic acrisol)

nghèo dinh dưỡng phía Bắc Việt Nam, tỷ lệ các loại N:P:K thích hợp là 2:1:2 tương

ứng 200 kg N, 100 kg P2O5 và 200 kg K2O (Trần Công Hạnh, 1999) [11].

Thời vụ trồng mía ở nước ta chủ yếu phụ thuộc vào sự phân bố mưa của từng

vùng sinh thái. Đối với khu vực Nam bộ và Tây Nguyên có 2 thời vụ trồng mía là

vụ trồng từ tháng 10 – tháng 12 (vụ chính) và vụ trồng từ tháng 4 – tháng 6. Khu

vực Trung bộ thời vụ trồng mía từ tháng 4 – tháng 6 (vụ chính) và vụ trồng từ tháng

8 – tháng 10 hoặc từ tháng 12 năm trước đến tháng 1 năm sau. Khu vực miền Bắc

cũng có 2 thời vụ là vụ trồng từ tháng 1– tháng 3 (vụ chính) và vụ trồng từ tháng 7

– tháng 9. Khoảng cách hàng được khuyến cáo là từ 1 – 1,2 m nhưng thực tiễn sản

xuất vẫn còn tập quán trồng quá dày – đây là một trong những nguyên nhân ảnh

hưởng đến năng suất và chất lượng mía. Đối với vùng Đông Nam bộ, tưới nước có

thể làm tăng năng suất 100% so với không có tưới (Nguyễn Huy Ước, 1994) [21].

Tuy nhiên, việc tìm ra yếu tố giới hạn của tính thời vụ cho từng giống mía ở từng

vùng sinh thái, vai trò của thời vụ trồng trong việc kéo dài vụ ép và rải vụ cũng như

việc đánh giá hiệu quả tưới, các phương pháp tưới còn chưa được quan tâm nghiên

cứu đầy đủ.

7

Theo Đỗ Ngọc Diệp, Ngô Văn Khu và cộng sự (1987) [6], ở miền Đông

Nam Bộ có 30 loài bệnh hại mía, chủ yếu là bệnh thối đỏ (Glomerella

tucumanensis), bệnh than (Ustilago scitaminea) và một số loại bệnh đốm lá khác

như bệnh đốm vàng (Cercospora koepkei Kriiger), bệnh đốm mắt én,... Còn trước

đó, vào khoảng đầu những năm 1960, theo kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu

Việt Nam – Đài Loan trong khuôn khổ dự án hợp tác về nghiên cứu phát triển cây

lúa, cây mía, cây rau và các cây trồng khác ở miền Nam Việt Nam thì ở khu vực

miền Trung và Nam Việt Nam có 11 loài bệnh hại mía, trong đó, bệnh đốm vàng,

bệnh đốm đỏ, bệnh than là những bệnh hại chủ yếu. Gần đây cùng với sự ra đời và

phát triển nhanh chóng của chương trình mía đường Quốc gia, nhiều giống mía mới

đã du nhập vào nước ta bằng các con đường khác nhau, chính thức và không chính

thức. Tuy nhiên, hầu như tất cả các giống mía nhập nội trong thời gian qua đều

không được kiểm dịch một cách chặt chẽ (phải được trồng trong khu vực cách ly

và theo dõi trong vòng ít nhất là 1 năm trước khi đưa vào hệ thống khảo kiểm nghiệm,

công nhận và phổ biến giống). Chính vì vậy, cùng với việc phát triển nhanh chóng

của các giống mía này, một số bệnh hại mía trước đây chỉ thấy xuất hiện cục bộ,

gây hại ít thì nay xuất hiện phổ biến, gây hại nặng như bệnh than trên các giống VĐ

(của Trung Quốc), bệnh thối đọt trên các giống ROC (của Đài Loan), bệnh thối đỏ

trên các giống Co (của Ấn Độ). Đặc biệt, ở một số vùng trồng mía tập trung như

Đồng Nai, Thanh Hóa,... gần đây đã xuất hiện 1 loài bệnh hại mới rất nguy hiểm, 1

đối tượng kiểm dịch của nhiều nước trên thế giới, đó là bệnh trắng lá. Điển hình ở

Đồng Nai trong vụ mía 1998/1999 có khoảng 5.000 ha bị nhiễm bệnh trắng lá, trong

đó khoảng 300 ha bị hại nặng (Viện Nghiên cứu Mía Đường, 1999) [23]. Các loài

bệnh hại mía như bệnh thối đỏ, bệnh than, bệnh đốm vàng lá, bệnh trắng lá, bệnh

thối đọt,... cũng được đánh giá là một trong những nguyên nhân chính làm thoái hóa

nhanh chóng các giống mía mới, dẫn đến giảm năng suất, chất lượng mía nguyên

liệu. Mặc dù vậy, cho đến nay có rất ít các công trình nghiên cứu trong nước về biện

pháp phòng trừ bệnh hại mía. Các kết quả nghiên cứu cho thấy các loại thuốc trừ

nấm tỏ ra ít có hiệu quả khi sử dụng phun lên bộ lá để phòng trừ các bệnh hại thân

như bệnh than, bệnh thối đỏ,... Hiện nay có 2 biện pháp phòng trừ bệnh hại mía có

tính khả thi hơn cả là trồng giống mía chống chịu bệnh và xử lý hom giống trước

khi trồng. Kết quả nghiên cứu của Đỗ Ngọc Diệp và cộng sự (2000) [7] cho thấy

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!