Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Sản phẩm du lịch đêm ở hội an từ trường hợp công viên văn hóa ấn tượng hội an
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐỀ CƢƠNG TÓM TẮT LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài: SẢN PHẨM DU LỊCH ĐÊM Ở HỘI AN TỪ TRƢỜNG HỢP CÔNG
VIÊN VĂN HÓA ẤN TƢỢNG HỘI AN
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn
hóa – xã hội và có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế - xã hội của
nhiều quốc gia trên thế giới.
Trong bức tranh tổng thể của du lịch Việt Nam, Hội An nổi lên như một
điểm sáng với các thế mạnh được thiên nhiên ban tặng mà ít nơi nào có được.
Với vị trí là vùng cửa sông - ven biển, nơi hợp lưu của các con sông lớn của xứ
Quảng, hệ thống thủy văn dày đặc đã tạo cho Hội An nhiều cảnh quan thiên
nhiên tươi sắc, hài hòa với nhiều thắng cảnh hấp dẫn. Bên cạnh đó, Hội An có
một bề dày văn hóa với những di tích lịch sử, công trình kiến trúc, làng nghề, lễ
hội truyền thống, ... Với những tiềm năng đó, du lịch Hội An thời gian qua đã có
những bước phát triển vượt bậc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng du khách
khi đặt chân đến đây.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được, vấn đề khai thác tiềm năng
du lịch ở Hội An vẫn còn những vấn đề nảy sinh trong yêu cầu của từng chặng
đường phát triển, đặc biệt là thực trạng chúng ta đã khai thác gần như là tận
dụng tuyệt đối các tiềm năng về cảnh quan tự nhiên, về di tích văn hóa - lịch sử,
các làng nghề, lễ hội truyền thồng,… để thu hút du lịch. Trước tình hình đó, bài
toán đặt ra cho ngành du lịch Hội An nằm ở việc cần phải đa dạng hóa các sản
phẩm du lịch, tìm hướng đi mới trong phát triển du lịch bằng việc mở ra các loại
hình, sản phẩm du lịch kiểu mới như một quá trình tất yếu để làm mới mình hơn
nữa, thu hút nhiều đối tượng khách hơn nữa để đóng góp cho sự phát triển mạnh
mẽ hơn về văn hóa du lịch Hội An.
Mặt khác, về mảng văn hóa mong muốn tạo sự ấn tượng, quảng bá văn hóa
địa phương đối với du khách trong nước cũng như bè bạn quốc tế bằng những
phương pháp, hình thức mới mẻ hơn, nhanh chóng giây ấn tượng vẫn đang là
vấn đề trăn trở của những người làm công tác văn hóa. Với những yêu cầu đặt ra
trong giai đoạn phát triển mới, các vấn đề trên đang là một bài toán thu hút nhiều
sự quan tâm từ những người làm công tác nghiên cứu văn hóa cũng như kinh tế
du lịch. Với mong muốn góp phần vào việc phát triển văn hóa du lịch ở Hội An,
để địa phương có những bước phát triển hiệu quả và mạnh mẽ hơn trong tương
lai, chúng tôi quyết định thực hiện đề tài: “SẢN PHẨM DU LỊCH ĐÊM Ở
HỘI AN TỪ TRƢỜNG HỢP CÔNG VIÊN VĂN HÓA ẤN TƢỢNG HỘI
AN”.
2. Mục đích nghiên cứu
Giới thiệu, phân tích, làm rõ tiềm năng cũng như hiện trạng phát triển của
sản phẩm du lịch mới từ trường hợp Công viên văn hóa chủ đề Ấn tượng Hội
An. Từ đó làm cơ sở đề xuất các giải pháp, định hướng phát triển mô hình du
lịch kiển mới này có hiệu quả, nhằm góp phần nâng cao giá trị sản phẩm du lịch
ở Hội An nói chung và sản phẩm du lịch đêm nói riêng thúc đẩy sự phát triển
văn hóa, kinh tế - xã hội, đưa Hội An trở thành một trung tâm du lịch lớn của đất
nước.
Không những vậy, là một sinh viên chuyên ngành Văn hóa học, với mục
tiêu được đào tạo để trở thành những cán bộ nghiên cứu văn hóa, đề tài này đã
góp phần đánh dấu quá trình học tập, rèn luyện và nghiên cứu khoa học từ hoạt
động thực tiễn của tôi. Tôi được vận dụng những kiến thức được thầy cô đã trao
truyền và kiến thức tự tổng hợp bước đầu đưa ra những sản phẩm khoa học riêng
của bản thân, mặt khác đóng góp vào việc nghiên cứu cũng như làm nghề sau
này. Điều này là động lực cũng như khơi gợi trong tôi nhiều cảm hứng cũng như
tâm huyết để thực hiện đề tài.
3. Lịch sử vấn đề
Đây là một đề tài mới, chưa có công trình nghiên cứu mang tính khoa học
chính thống nào được đưa ra. Một phần do đây là một sản phẩm du lịch mới, chỉ
mới vừa được đưa và khai thác hoạt động từ tháng 3 năm 2018. Khi công viên
văn hóa chủ đề Ấn tượng Hội An mới đưa vào khai thác đặc biệt là hạng mục
sân khấu ngoài trời đã gây xôn xao dư luận và nhận rất nhiều ý kiến cả cổ vũ cả
trái chiều từ các nhà làm công tác nghiên cứu cũng như các đối tượng du khách,
nhân dân địa phương. Báo chí cũng có rất nhiều bài viết khai thác về vấn đề ra
đời công viên văn hóa chủ đề Ấn tượng Hội An với nhiều góc nhìn, hướng tiếp
cận khác nhau. Những thông tin phản ánh từ báo chí tuy chưa trực tiếp nghiên
cứu chuyên sâu vấn đề, song nó giúp chúng tôi có nhiều góc nhìn trực quan, sinh
động hơn về đối tượng chúng tôi muốn hướng đến nghiên cứu và là nguồn thông
tin, tài liệu rất bổ ích để chúng tôi kế thừa, phục vụ cho việc đưa ra những vấn
đề lý luận liên quan đến đề tài này.
Cụ thể Báo Người lao động đã có bài đăng “Ngắm công viên Ấn tượng
Hội An” vào ngày 02/08/2018. Bài viết truyền tải chi tiết các thông tin liên quan
đến Công viên văn hóa Ấn tượng Hội An với nhiều chuỗi hoạt động, sự kiện sôi
động diễn ra trong mô hình từ những ngày đầu ra mắt công chúng. Bài viết nhận
được sự quan tâm đông đảo của độc giả, bước đầu cung cấp cho người đọc
thông tin cơ bản về địa điểm du lịch mới hấp dẫn này. Ngoài ra các trang
Baomoi.vn, Nông nghiệp Việt Nam cũng có nhiều bài đăng đề cập đến những
quan điểm ý kiến đồng thuận cũng như trái chiều từ khán giả cũng như giới
chuyên gia về mô hình sản phẩm du lịch đêm này. Bên cạnh đó, các chương
trình truyền hình như Cà phê sáng VTV3 (27/4/2018) đã cập nhật bản tin “Kí ức
Hội An – Chương trình thuật chở đầy văn hóa” với những bình luận sinh động
về mô hình này. Đặc biệt chương trình thời sự lúc 19h trên kênh VTV1 – Đài
truyền hình Việt Nam (24/3/2019) đã phát sóng bản tin “Hãng Reuters đưa tin:
"Ký ức Hội An" đang trở thành hiện tượng toàn cầu” thu hút rất lớn sự quan
tâm của khán giả xem chương trình.
Nhận thấy đây thực sự là vấn đề mới, được sự quan tâm của các nhà làm
công tác lãnh đạo, báo chí truyền thông, người làm công tác văn hóa cũng như
đông đảo dư luận nhân dân địa phương, chúng tôi quyết định đi sâu khảo sát,
nghiên cứu để có những hiểu biết chuyên sâu hơn về sản phẩm du lịch văn hóa
giải trí mang tính mới này. Từ đó đưa ra cái nhìn tổng quan, khoa học và đề xuất
các giải pháp cho các giai đoạn, chặng đường phát triển xa hơn về sau của sản
phẩm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Loại hình sản phẩm du lịch đêm Công viên văn hóa
chủ đề Ấn tượng Hội An
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Đề tài trực tiếp khảo sát, nghiên cứu hiện trạng và tiềm năng
phát triển của sản phẩm du lịch văn hóa giải trí Công viên văn hóa chủ đề Ấn
tượng Hội An tại địa điểm phường Cẩm Nam, thành phố Hội An, tỉnh Quảng
Nam.
Về thời gian: Đề tài chủ yếu dựa trên cơ sở nghiên cứu khảo sát, điền dã về
các sản phẩm du lịch ở Hội An và trực tiếp nhất là sản phẩm du lịch văn hóa
kiểu mới Công viên văn hóa chủ đề Ấn tượng Hội An trong khoảng thời gian từ
khởi phát nghiên cứu đề tài từ tháng 9/2018 đến năm tháng 4/ 2019. Bên cạnh
đó, đề tài còn tham khảo sử dụng những tư liệu đã viết về đối tượng nghiên cứu
này trong lịch sử tiếp cận từ báo chí, truyền thông ở thời gian trước khởi phát
nghiên cứu.
Về nội dung: Giới thiệu những nét đặc sắc, tiêu biểu, phân tích và làm rõ
tiềm năng cũng như hiện trạng phát triển của sản phẩm du lịch đêm kiểu mới từ
trường hợp Công viên văn hóa chủ đề Ấn tượng Hội An. Từ đó khai thác những
giá trị độc đáo này như là một tài nguyên du lịch văn hóa mới để làm phong phú
và đặc sắc thêm cho các sản phẩm du lịch nói riêng cũng như ngành du lịch
thành phố Hội An nói chung.
Đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi tiếp cận tìm hiểu, thu thập tài liệu, khảo sát
điền dã Công viên văn hóa chủ đề Ấn tượng Hội An và các vấn đề sản phẩm du
lịch đêm nói chung ở Hội An. Đồng thời chúng tôi thực hiện thống kê số liệu
liên quan đến du lịch, điều tra và phỏng vấn du khách. Từ đó có những thông số
đánh giá tiềm năng thu hút và thỏa mãn nhu cầu khách du lịch khi đến với sản
phẩm du lịch đêm Công viên văn hóa chủ đề Ấn tượng Hội An. Qua đó làm nổi
bật được tầm quan trọng của việc đầu tư, hoạch định đưa ra các sản phẩm mới
mẻ hơn trong vấn đề phát triển văn hóa du lịch địa phương trong tương lai.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Bản thân người thực hiện luận văn chúng tôi nhận thấy đây là một đề tài rất
thú vị và hữu ích. Đề tài có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận cũng như khá gần
gũi với thực tiễn. Về mặt lý luận, luận văn góp phần nhận diện, tiếp cận nghiên
cứu và làm rõ thêm tiềm năng về du lịch văn hóa giải trí ở Hội An trực tiếp từ
sản phẩm du lịch đêm kiểu mới Công viên văn hóa chủ đề Ấn tượng Hội An. Về
mặt thực tiễn, đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong việc xây dựng, tìm ra các hướng
đi mới trong kinh doanh du lịch và quảng bá văn hóa dân tộc cũng như ở cấp độ
địa phương. Tiếp cận nghiên cứu từ thực tiễn từ đó đề xuất các giải pháp nâng
cao giá trị sản phẩm du lịch đêm ở Hội An góp phần đưa ngành du lịch Hội An
có nhiều bước tiến vượt bậc hơn nữa trong tương lai
6. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
Với nội dung chủ yếu đề cập trực tiếp tới nghiên cứu sản phẩm du lịch đêm
kiểu mới Công viên văn hóa chủ đề Ấn tượng Hội An, đề tài “SẢN PHẨM DU
LỊCH ĐÊM Ở HỘI AN TỪ TRƢỜNG HỢP CÔNG VIÊN VĂN HÓA ẤN
TƢỢNG HỘI AN” được chúng tôi thực hiện trên cơ sở hệ thống các lý luận về
du lịch văn hóa và đánh giá nhu cầu du lịch văn hóa, du lịch giải trí trên địa bàn
thành phố Hội An, đồng thời khảo sát tài nguyên và các hoạt động du lịch văn
hóa tiêu biểu trên địa bàn thành phố. Để làm được điều này, chúng tôi đã vận
dụng bốn phương pháp nghiên cứu chính.
Thứ nhất là phương pháp khảo sát thực địa. Đề tài nghiên cứu nào cũng vậy,
muốn có tính ứng dụng vào thực tiễn cao thì việc đi điền dã, khảo sát là một
trong những công việc không thể thiếu của người nghiên cứu vì vậy chúng tôi đã
đến tận nơi khảo sát, nghiên cứu về Công viên văn hóa Ấn tượng Hội An. Thông
qua đó, chúng tôi tiếp cận gần gũi hơn nhằm nắm bắt được hiện trạng hoạt động
tại các điểm du lịch địa phương, qua đó giúp công việc đánh giá tiềm năng, hiện
trạng phát triển du lịch văn hóa tại địa điểm khảo sát cũng như trên địa bàn
thành phố Hội An được chính xác và khách quan hơn.
Thứ hai là phương pháp thu thập và xử lý tài liệu. Trên cơ sở thu thập thông
tin tư liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau có liên quan tới du lịch văn
hóa ở Hội An, chúng tôi đã xử lý, chọn lọc để có những kết luận cần thiết, nhằm
có một cái nhìn tổng quan nhất về sản phẩm du lịch mới này.
Thứ ba là phương pháp thống kê, phân loại, so sánh. Trong khuôn khổ đề tài
này, những thống kê về số liệu có liên quan đến các hoạt động du lịch văn hóa ở
thành phố Hội An, đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2018 sẽ được
thu thập, thống kê trong theo quy chuẩn chung của ngành Du lịch làm cơ sở cho
việc xử lý, phân tích, đánh giá nhằm thực hiện những mục tiêu đã đề ra.
Cuối cùng là phương pháp điều tra xã hội học. Muốn có tính ứng dụng vào
thực tiễn cao thì việc đi điều tra xã hội học, khảo sát nhu cầu thực tế của đối
tượng du khách là vô cùng cần thiết. Mặt khác, các số liệu còn đóng vai trò như
những con số biết nói góp phần đánh giá tính khoa thực tiễn của đề tài. Thông
qua đó, chúng tôi tiếp cận gần gũi hơn nhằm nắm bắt được hiện trạng hoạt động
tại điểm du lịch, giúp công việc đánh giá tiềm năng, hiện trạng phát triển của sản
phẩm du lịch văn hóa giải trí trên địa bàn thành phố Hội An được khách quan,
khoa học hơn.
7. Bố cục công trình
Đề tài gồm 90 trang, ngoài phần Mở đầu; Kết luận; Tài liệu tham
khảo; và Phụ lục; Nội dung chính của đề tài được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận của đề tài
Chương 2: Khai thác sản phẩm du lịch đêm ở Hội An từ trường hợp Công
viên văn hóa Ấn tượng Hội An
Chương 3: Nâng cao giá trị sản phẩm du lịch đêm ở Hội An từ trường hợp
Công viên văn hóa Ấn tượng Hội An
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Du lịch
Phần này chúng tôi đề cập đến khái niệm du lịch ở nhiều cách tiếp cận khác
nhau từ cách hiểu thông thường và cách hiểu mang tính hàn lâm.
Và dù có nhiều khái niệm về du lịch vậy nhưng tổng hợp lại một khái niệm du
lịch luôn hàm chứa các yếu tố cơ bản sau:
Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội.
Du lịch là sự di chuyển và tạm thời lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên của các
cá nhân hoặc tập thể nhằm thoả mãn các nhu cầu đa dạng của họ. (Chủ yếu là
nghỉ dưỡng, trải nghiệm, thư giãn, tiêu tiền cho các dịch vụ du lịch)
Du lịch là tập hợp các hoạt động kinh doanh phong phú và đa dạng nhằm
phục vụ cho các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời, và các nhu cầu khác của cá
nhân hoặc tập thể khi họ ở ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Các cuộc hành
trình, lưu trú tạm thời của cá nhân hoặc tập thể đó đều đồng thời có một số mục
đích nhất định, trong đó có mục đích hoà bình.
1.1.2. Sản phẩm du lịch và sản phẩm du lịch văn hóa
Có nhiều khái niệm về sản phẩm du lịch, một trong những khái niệm đó
là: “Sản phẩm du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên
cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho du khách một khoảng
thời gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng” (Từ điển du
lịch – Tiếng Đức NXB Berlin 1984).
Sản phẩm du lịch gồm các dịch vụ du lịch, hàng hóa và tiện nghi cung cấp
cho người du lịch, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự
nhiên xã hội với việc sử dụng các nguồn lực từ cơ sở vật chất kỹ thuật và lao
động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó.
Như vậy sản phẩm du lịch bao gồm những yếu tố hữu hình (hàng hóa) và
vô hình (dịch vụ) để cung cấp cho khách hay nó bao gồm hàng hóa, các dịch vụ
và tiện nghi phục vụ khách du lịch.
Sản phẩm du lịch là tất cả hàng hóa dịch vụ mà khách du lịch tiêu dùng
trong chuyến đi của họ. Sản phẩm du lịch văn hóa thực chất là các sản phẩm du
lịch nhưng được nhấn mạnh hơn bởi đặc tính văn hóa của nó. “Sản phẩm văn hóa
là những sản phẩm trong lĩnh vực tinh thần do con người sáng tạo ra trong tiến
trình phát triển của lịch sử để phục vụ cuộc sống, thỏa mãn những mục đích và
nhu cầu khác nhau của các cá nhân, cộng đồng người” [1;tr14].
1.1.3. Công viên văn hóa
Khái niệm công viên theo chủ đề (theme park) được biết đến như các công
viên giải trí thường gặp. Điểm khác biệt ở đây là các mô hình kiến trúc, trò vui
chơi giải trí được xây dựng và thiết kế dựa trên một chủ đề chính, ví dụ tôn giáo,
văn hóa hay khoa học, nghệ thuật…
Ở phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đưa ra định nghĩa “công viên
văn hóa” là một khu vực cố định rộng lớn để giải trí công cộng, với các hoạt
động giải trí, tổ chức các trò chơi có cả nhà hàng, khu nghỉ dưỡng v.v., Tất cả các
yếu tố đó được kết nối với một chủ đề duy nhất liên quan đến lĩnh vực văn hóa
đã được nhà đầu tư thiết kế, lên ý tương xây dựng dự án.
1.2. Tổng quan về du lịch thành phố Hội An
1.2.1. Tiềm năng và tốc độ phát triển du lịch
1.2.1.1. Các yếu tố tự nhiên và xã hội
Vị trí địa lý và lãnh thổ
Thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam, có tổng diện tích tự nhiên là
61,71 km², nằm bên bờ Bắc hạ lưu sông Thu Bồn, cách quốc lộ 1A khoảng 9 km
về phía Đông, cách thành phố Đà Nẵng 25 km về phía Đông Nam, cách thành
phố Tam Kỳ khoảng 50 km về phía Đông Bắc.
Phần đất liền của thành phố có diện tích 46,22 km² (chiếm 74,9% tổng
diện tích tự nhiên toàn thành phố)
Về hành chính: Hội An hiện tại phân chia thành 9 phường: Cẩm An, Cẩm
Châu, Cẩm Nam, Cẩm Phô, Cửa Đại, Minh An, Sơn Phong, Tân An, Thanh
Hà và 4 xã: Cẩm Hà, Cẩm Kim, Cẩm Thanh, Tân Hiệp (xã đảo nằm trên Cù lao
Chàm).
Điều kiện tự nhiên
Về địa hình, Hội An nhìn chung thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam,
độ dốc thoải trung bình 0,015°, phân thành 2 dạng địa hình sau: địa hình vùng
đồng bằng và địa hình hải đảo
Về khí hậu, do phía Bắc được ngăn bởi dải Bạch Mã, phía Tây được che
bởi khối núi Bắc tỉnh Kon Tum nên cũng như các địa phương khác của Quảng
Nam và các tỉnh, thành phố lân cận, Hội An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm
gió mùa vùng Nam Hải Vân, mang tính chất khí hậu ven biển Miền Trung, nóng
ẩm, mưa nhiều và mưa theo mùa, có nền nhiệt độ cao, nắng nhiều, ít chịu ảnh
hưởng của gió mùa đông.
Về thủy văn, Hội An là vùng cửa sông - ven biển, nơi hội tụ của các con
sông lớn của xứ Quảng.
Về sinh vật, tổng diện tích đất lâm nghiệp của Hội An là 739,53 ha gồm rừng
đặc dụng và rừng phòng hộ. Rừng ở Hội An rất đặc thù, với hệ động vật - thực
vật phong phú, được xếp vào chủng loại có giá trị đa dạng sinh học và giá trị dự
trữ sinh quyển cao.
Lịch sử hình thành và phát triển
Do có đặc điểm địa lý thuận lợi nên từ 3.000 năm trước, trên vùng đất Hội An
ngày nay đã xuất hiện những lớp cư dân đầu tiên.
Dưới thời vương quốc Champa (thế kỷ thứ II đến thế kỷ XIV) vùng đất Hội
An lúc bấy giờ có tên gọi là Lâm Ấp phố. Đại Chiêm Hải Khẩu (Cửa Đại) và
Chiêm Bất Lao (Cù Lao Chàm) trở thành điểm dừng chân quan trọng trên con
đường hàng hải quốc tế.
Khởi phát từ năm 1558, khi Nguyễn Hoàng quyết tâm rời bỏ vùng đất bản
hộ của họ Nguyễn ở Thanh Hóa để tiến về phương Nam, một bộ phận cư dân
Việt phát tích từ các vùng Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh đã dừng bước lưu
dân, an cư lạc nghiệp, dựng làng lập phố bên dòng sông Thu Bồn thơ mộng.
Từ giữa thế kỷ XVI, sau một thời kỳ suy thoái, các “Chiêm cảng” ở miền
Trung vốn có truyền thống từ thời đại Champa được tái sinh. Do có vị trí địa lý
thuận lợi, tiềm năng của một xứ Quảng giàu tài nguyên, dồi dào đặc sản, nguồn
nhân lực tràn đầy sinh khí, chính sách ngoại kiều và ngoại thương khôn khéo,
thoáng mở… nên cảng thị Hội An đã tạo nên một hấp lực lớn, thu hút nhiều
thuyền buôn nước ngoài tấp nập đến giao thương.
Từ cuối thế kỷ XIX, những thay đổi về mặt chính trị đã diễn ra một cách
mạnh mẽ, Hội An dần dần mất vai trò và nhường chỗ cho sự nổi lên của những
cảng khác dọc bờ biển Việt Nam. Tuy nhiên, cũng nhờ có sự việc này mà Hội An
đã tránh được những nhân tố bất lợi từ quá trình hiện đại hoá có thể gây hại đến
diện mạo và những giá trị văn hoá quý báu của nó, đồng thời, có khả năng được
bảo tồn nguyên vẹn như chúng ta thấy ngày nay.
Ngày 29/01/2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 10/NĐ-CP thành lập
Thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam.
Ngày 28/3/2008, Hội An chính thức được công nhận là thành phố cấp ba
trực thuộc tỉnh Quảng Nam, bao gồm 9 phường: Minh An, Sơn Phong, Cẩm Phô,
Tân An, Cửa Đại, Cẩm An, Cẩm Châu, Cẩm Nam và 3 xã: Tân Hiệp, Cẩm
Thanh, Cẩm Kim.[5]
Đặc điểm về kinh tế
Năm 2017, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đã nỗ lực hoàn
thành thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà thành phố đã đề ra: giá trị
sản xuất theo giá so sánh năm 2010 ước đạt 8.653,951 tỷ đồng, tăng 16,56%; trong
đó, nhóm ngành du lịch – dịch vụ - thương mại tăng 17,19%; ngành công nghiệp –
tiểu thủ công nghiệp và xây dựng tăng 19,97%; ngành nông – lâm – ngư nghiệp
tăng 2,07%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 40,97 triệu đồng, tăng 4,19 triệu
đồng so với năm 2016.[23]
Kết quả này là khá toàn diện và được thể hiện cụ thể trên từng lĩnh vực.
Đặc điểm về văn hóa - xã hội
Dân cƣ và lao động
Theo hiện trạng dân số năm 2015 (số liệu mới nhất mà chúng tôi tiếp cận
được) thì mật độ dân số Hội An tập trung cao tại các phường trung tâm, chiếm trên
30% tổng dân số thành phố. Minh An có 9.980 người, Sơn Phong 6.130 người, Cẩm
Phô 8.836 người/km2
,... trong khi đó, mật độ dân số bình quân cả nước là 243
người/km2
, thành phố HCM 3.400 người, Hà Nội 2.000 người, Đà Nẵng 70
người/km2
. Điều này gây áp lực lớn lên cơ sở hạ tầng cận khu phố cổ và tình trạng ô
nhiễm môi trường, nguồn nước.
Ngoài dân số tăng tự nhiên tại chỗ, hằng năm ở Hội An tốc độ gia tăng dân
số cơ học khá cao. Mặt khác, hàng ngày có một lượng du khách khá lớn đến tham
quan du lịch, nhiều lao động từ các địa phương khác trong và ngoài tỉnh đến buôn
bán làm ăn và không ít các nhà khoa học, cán bộ, công chức, viên chức, nghệ sĩ...
đến nghiên cứu, công tác.
Văn hóa
So với các đô thị khác của Việt Nam, Hội An có những đặc điểm lịch sử và
địa lý nhân văn rất riêng biệt. Mảnh đất nơi đây có một lịch sử lâu đời và là nơi gặp
gỡ, giao thoa của nhiều nền văn hóa. Đặc điểm đầu tiên có thể nhận thấy ở văn hóa
Hội An chính là tính đa dạng.
Một đặc điểm nổi bật khác của văn hóa Hội An là tính bình dân. Khác
với Huế, kinh thành cũ, nơi nhiều di sản văn hóa mang tính chất cung đình, hệ
thống di tích của Hội An là những thiết chế văn hóa cổ truyền của cuộc sống đời
thường. Ở Hội An, văn hóa phi vật thể vẫn đang sống và tương thích với hình thái
văn hóa vật thể.
1.2.1.2. Tốc độ phát triển du lịch
Đô thị cổ Hội An trở thành Di sản văn hóa thế giới (1999) là dấu mốc thay
đổi mọi mặt đời sống của người dân ở đây. Một năm sau khi trở thành Di sản văn
hoá Thế giới, du lịch Hội An đã phát triển mạnh mẽ cả về lượng du khách, thu nhập
du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật và các dịch vụ du lịch.[2;tr77]
Lượng du khách đến Hội An ngày càng tăng. Trong năm 2007, Hội An đã
chào đón vị khách thứ 1 triệu, đánh dấu một bước ngoặt mới trong quá trình phát
triển của du lịch ở một thị trấn nhỏ, nhưng nổi tiếng và ngày càng trở nên nổi tiếng
trên thế giới. Trong năm 2013, Hội An đón 1.610.000 lượt khách, trong đó có
1.170.000 lượt khách tham quan. Trong năm 2014, Hội An đón tiếp khoảng hơn
1,7 triệu khách, tăng gần 8% so với năm 2013 [13].
Ngành Du lịch Hội An trong năm 2010 đã tạo việc làm cho khoảng 7.200
người lao động trực tiếp [19], tăng 2,11 lần so năm 2006 (3.411) người [11, tr. 54].
Du lịch và các dịch vụ thương mại khác đóng góp phần lớn giá trị tăng thêm
(GDP) của thành phố Hội An năm 2012, chiếm 66,59% tổng GDP toàn thành phố.
Những năm gần đây, Đô thị cổ Hội An đã trở thành một điểm đến văn hóa
nổi tiếng trên thế giới. Hội An liên tục được bình chọn là điểm đến có sức hấp dẫn
lớn trong khu vực và trên thế giới.
1.2.2. Thực trạng phát triển các sản phẩm du lịch từ tài nguyên du lịch
Theo báo cáo của Uỷ ban Nhân dân TP.Hội An cho biết, 6 tháng đầu năm
2018 tổng lượng khách tham quan, lưu trú trên địa bàn ước đạt 2,68 triệu lượt,
tăng 69% so với cùng kỳ (khách quốc tế khoảng 2 triệu lượt, tăng hơn 23%;
khách nội địa đạt 680 nghìn lượt, đạt hơn 95% so với cùng kỳ). Vài năm trở lại
đây thị trường khu vực châu Á, chủ yếu là Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc) bắt đầu chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu khách; thị trường khách nội
địa chủ yếu đến từ Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh.[20]
Năm 2018 ngành du lịch Quảng Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi
nhận, tổng lượt khách đến Quảng Nam ước đạt 6,5 triệu lượt khách, tăng 24,29%
so với 2017 (trong đó khách quốc tế 3,8 triệu lượt khách tăng 36,5%), thu nhập
xã hội từ du lịch ước đạt 11.100 tỷ đồng, tăng 24% so với 2017.[20] Cơ sở hạ
tầng, cơ sở vật chất phục vụ du lịch được tăng cường đầu tư . Nhiều sản phẩm du
lịch, khu vui chơi giải trí có quy mô ra đời và nâng cấp, đưa vào phục vụ khách
du lịch. Thương hiệu du lịch Hội An và một số doanh nghiệp được ghi nhận từ
nhiều tạp chí uy tín về du lịch trong nước và quốc tế bình chọn. Có thể thấy
những kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh.
1.2.2.1. Sản phẩm du lịch từ tài nguyên du lịch tự nhiên
Tiềm năng phát triển du lịch đường sông:
Nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, Hội An là một vùng cửa sông ven biển. Với
vị trí địa lý như vậy, trong giai đoạn hiện nay, hệ thống đường sông tại Hội An
(với hệ thống luồng lạch gồm 43 km luồng chính, 11 km luồng phụ) đang trở
thành một tiềm năng du lịch chiến lược của địa phương
Đứng trước lợi thế như vậy, những năm qua, chính quyền và cộng đồng
doanh nghiệp, doanh nhân thành phố đã khai thác tiềm năng du lịch đường sông.
Một điển hình về du lịch đường sông ở Hội An khác phải kể đến là tuyến đường
thủy sông Hoài, gắn liền với khu phố cổ. Năm 2014, Hội An được bầu chọn là
một trong mười thành phố đẹp, có kênh đào nổi tiếng thế giới.
Du lịch đƣờng sông trên sông Hoài
Du thuyền trên sông Hoài là một trong những hoạt động giải trí đặc trưng
thu hút du khách khi du lịch Hội An.
Dịch vụ đi thuyền trên sông Hoài phục vụ du khách từ lúc sáng sớm cho
đến tối khuya. Mỗi thời điểm đi thuyền sẽ có những điều thú vị riêng.
Người dân Phố cổ ngoài việc mưu sinh bằng nghề thủ công, bằng các gánh
hàng rong thì chèo thuyền đưa khách thăm quan khi du lịch Hội An Đà Nẵng
cũng chiếm một phần lớn. Hội An đẹp nhất là khi về đêm – đó là điều không ai
có thể phủ nhận khi đã từng du lịch Hội An về đêm.
Du lịch sinh thái – nghỉ dƣỡng
Rừng dừa Bảy Mẫu (Cẩm Thanh, Hội An) là điểm du lịch sinh thái hấp
dẫn, được ví như “Nam Bộ trong lòng phố Hội” với không gian xanh mát của bạt
ngàn dừa nước, trải rộng tới tận Cửa Đại.
Rừng dừa Bảy Mẫu có hệ sinh thái ngập mặn gần biển trù phú, là nơi cư trú,
sinh sống của nhiều loài động vật có giá trị, nhất là tôm, cua, cá và các loài động vật
thân mềm, cùng một số loài chim. Nơi đây còn đóng vai trò như một máy lọc sinh
học, giúp làm trong sạch nguồn nước. Đến với khu du lịch sinh thái rừng dừa Bảy
Mẫu sẽ là dịp để bạn hòa mình vào không gian trong lành, và tham gia nhiều hoạt
động trải nghiệm thú vị.
Tiềm năng phát triển du lịch biển đảo
Cù lao Chàm; Các bãi tắm
Cù Lao Chàm thuộc vùng biển Hội An, cách Cửa Đại khoảng 21 km. Đây là
một nhóm gồm 7 đảo lớn nhỏ: Hòn Lao, Hòn Tai, Hòn Dài, Hòn Mô, Hòn Khô mẹ,
Hòn Khô con. Tổng diện tích trên 15km², trong đó rừng chiếm khoảng 90% , Hòn
lớn nhất là Hòn Lao, nhỏ nhất là Hòn Khô con.
Thực vật trên Cù Lao Chàm khá phong phú, đa dạng. Động vật hoang dã chủ
yếu là khỉ, thỏ, trăn, một số loài chim, đặc biệt là chim yến trụ ở các hang (hang
Khô, hang Cả, hang Tò Vò, hang Chân Rêu...) người dân làng Thanh Châu đã khai
thác nó thành yến sào quý hiếm từ thế kỷ XVII. Vùng biển quanh đảo có nhiều loại
cá, tôm, cua, mực, ốc... là ngư trường khai thác rất lý tưởng
Cù lao Chàm còn có một số đình, chùa, miếu có giá trị về lịch sử - văn hóa
như chùa Hải Tạng ở bãi Làng, miếu thờ Tổ nghề Yến ở bãi Hương, có những cảnh
đẹp như suối Tình, suối Ông, ao Thuyền...
1.2.2.2. Sản phẩm du lịch từ tài nguyên du lịch nhân văn/ văn hóa
Di tích lịch sử - văn hóa:
Trong thực tiễn quản lý di sản, Hội An còn đưa ra một số cách phân loại hệ
thống di sản văn hóa của mình đáp ứng yêu cầu của từng mảng hoạt động. Trong
công tác bảo tồn và tu bổ di tích, các công trình kiến trúc cổ được phân loại theo giá
trị bảo tồn và tùy từng loại, địa phương có các biện pháp tương ứng với giá trị bảo
tồn đó.
Về Nhà Cổ, Theo tài liệu thống kê, đến nay Hội An có 1.068 nhà cổ
nhưng trong quá trình thăm quan du khách thường chọn một trong ba nhà cổ nối
tiếng và đặc trưng nhất của Hội An đó là: Nhà cổ Tân Ký, địa chỉ 101 Nguyễn
Thái Học; Nhà cổ Quân Thắng, số 77 Trần Phú; Nhà cổ Phùng Hưng, số 4 đường
Nguyễn Thị Minh Khai,…
Di tích Chùa, Ở vùng Hội An có hai dạng chùa đó là chùa làng gắn liền
với khu dân cư và sự hình thành phát triển của làng; một dạng chùa khác nằm
tách biệt ngoài khu dân cư, thuần túy là nơi tu hành của các tu sĩ. Hầu hết các
chùa ở Hội An theo dòng Phật giáo Lâm tế của Tịnh Độ Tông, từ Trung Quốc
truyền sang vào thế kỷ XVII.
Nhìn chung, Phật giáo ở Hội An hình thành và phát triển khá sớm trong
lịch sử. Nhiều ngôi chùa vẫn giữ được những nét kiến trúc cổ kính truyền thống,
lưu giữ nhiều tư liệu, hiện vật có giá trị lịch sử - văn hóa như bia ký, chuông,
tượng, kinh Phật, mộc bản in kinh Phật và trở thành địa điểm sinh hoạt văn hóa -
tín ngưỡng của nhân dân, trong đó một số chùa được công nhận là di tích lịch sử
văn hóa cấp quốc gia như chùa Chúc Thánh, chùa Phước Lâm, chùa Vạn Đức,
chùa Viên Giác, chùa Hải Tạng. Hệ thống chùa, tịnh xá góp phần làm phong phú
thêm loại hình di tích tôn giáo tín ngưỡng ở Hội An.
Về Hội quán, đây là công trình kiến trúc tôn giáo của cộng đồng người
Hoa ở Việt Nam. Người Hoa sống ở Hội An đã nhiều thế kỷ, là chủ sở hữu tập
thể của những công trình kiến trúc này.
Hiện nay, trong khu phố cổ Hội An còn 5 hội quán của người Hoa đó là:
Trung Hoa Hội Quán (1741); Phước Kiến Hội Quán (1697); Triều Châu Hội Quán
(1845); Hải Nam Hội Quán (1875); Hội quán Quảng Triệu (1885).
Các hội quán người Hoa là những công trình kiến trúc tiêu biểu, độc đáo.
Các lễ hội, phong tục tập quán của người Hoa... cũng góp phần làm đa dạng phong
phú loại hình văn hoá ở di sản văn hoá Hội An.
Di tích Miếu – Lăng, Hội An hiện có 16 ngôi miếu và lăng. Các di tích
này có kiến trúc và quy mô khá khác nhau. Một số những miếu vừa và nhỏ khác
như miếu Ngũ Hành, Thái Giám, Nam Diêu thường nằm ở ngoài làng, hoặc giữa
các cánh đồng lúa. Nói chung, một ngôi miếu thường có ba gian, gian giữa có bàn
thờ và là nơi thờ cúng các vị tiền nhân, người hình thành nên cộng đồng người
Minh Hương ở Việt Nam, tổ nghề (bắt tổ yến, nghề gốm, mộc,…), có vị trí xây
dựng nằm ngay trong khu dân cư hoặc ở đầu làng (xóm).
Di tích giếng Chăm, có 10 cái giếng Chăm vẫn đang được sử dụng hiện
nay ở Hội An (hai cái ở làng Thanh Chiếm, hai cái ở làng An Bang, một ở Trà
Quế, một ở Cù Lao Chàm và năm hoặc sáu cái ở gần hồ Trung Phương) [28,
tr.118]. Những giếng này mang đặc trưng của người Chăm. Cho đến nay các giếng
Chăm vẫn đang được sử dụng và được bảo vệ tốt.
Lễ hội
Lễ hội là một trong những loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống tiêu biểu
nhất của người Việt. Theo số liệu từ một nghiên cứu điều tra tổng thể của Viện
Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam vào năm 2004, Hội An có tổng số là 60 lễ hội với
quy mô và đặc điểm khác nhau trên toàn bộ 12 phường xã của thị xã vào thời
điểm đó.[6]
Các lễ hội ở Hội An được chia thành nhiều loại như lễ hội nghề, lễ hội
nông nghiệp, lễ hội mùa, lễ hội tín ngưỡng,… Đối với người dân Hội An, lễ hội
có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống của họ. Lễ hội truyền thống cũng chính là
dịp để con người giao lưu, đồng cảm và trao truyền những khát vọng về đạo lí,
mĩ tục, tình cảm chân thành. Đồng thời là cầu nối giữa quá khứ và cuộc sống
hiện tại, tăng cường tinh thần cố kết cộng đồng, tình yêu quê hương đất nước và
niềm tự hào chính đáng về nguồn gốc dân tộc mình.
Làng nghề
Có thể nói các làng nghề truyền thống ở Hội An là một bộ phận rất quan
trọng và không thể tách rời khởi kho tàng di sản văn hóa Hội An.
Ngày nay với sự phát triền của lịch thì một số làng nghề nổi tiếng ở Hội
An đã tham gia vào phát triển du lịch trong số đó phải kể đến:
Làng mộc Kim Bồng; Làng rau Trà Quế; Làng gốm Thanh Hà; làng đúc
đồng Phước Kiều,…
Các làng nghề và những làng nghề truyền thống này đóng góp một phần
không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế của thành phố, đồng thời tạo công ăn việc
làm cho người dân trong các làng nghề và cùng lúc bảo vệ được những tri thức
cổ truyền cho thế hệ hiện nay và cho cả những thế hệ người dân tiếp sau.
1.3. Quá trình hình thành và phát triển Công viên văn hóa Ấn
tƣợng Hội An
Dự án Công viên văn hóa chủ đề “Ấn tượng Hội An” (gọi tắt là Gami Hội
An) do Công ty cổ phần Gami Hội An làm chủ đầu tư. Từ ban đầu, tháng 3/2008,