Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Quyết định truy tố bị can theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam
PREMIUM
Số trang
140
Kích thước
1.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1580

Quyết định truy tố bị can theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ TRẦN THỌ

QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ BỊ CAN

THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ BỊ CAN

THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Định hƣớng nghiên cứu

Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Lê Nguyên Thanh

Học viên: Lê Trần Thọ

Lớp: CHL Khóa 25

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan danh dự rằng: Luận văn “Quyết định truy tố bị can theo

Luật tố tụng hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học thực sự của cá

nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ luật học: Lê Nguyên Thanh.

Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung

thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin chịu trách

nhiệm về nghiên cứu của mình.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2020

Học viên

Lê Trần Thọ

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS Bộ luật hình sự

BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT Cơ quan điều tra

THTT Tiến hành tố tụng

HĐXX Hội đồng xét xử

KLĐT Kết luận điều tra

KSV Kiểm sát viên

TAND Tòa án nhân dân

THQCT Thực hành quyền công tố

TNHS Trách nhiệm hình sự

Tp Thành phố

TTHS Tố tụng hình sự

VAHS Vụ án hình sự

VKS Viện kiểm sát

VKSND Viện kiêm sát nhân dân

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1

CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ BỊ CAN CỦA

VIỆN KIỂM SÁT......................................................................................................6

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa quyết định truy tố bị can của Viện kiểm

sát.............................................................................................................................6

1.1.1. Khái niệm quyết định truy tố bị can của Viện kiểm sát..............................6

1.1.2. Đặc điểm của quyết định truy tố bị can ...................................................10

1.1.3. Ý nghĩa của quyết định truy tố bị can.......................................................15

1.2. Kinh nghiệm từ lịch sử pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam và pháp

luật một số nƣớc trên thế giới về quyết định truy tố bị can.............................17

1.2.1. Lịch sử của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyết định truy tố bị

can từ năm 1945 đến nay ...................................................................................17

1.2.2. Quyết định truy tố bị can theo luật tố tụng hình sự của một nước trên thế

giới......................................................................................................................24

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1........................................................................................31

CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT

NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ BỊ CAN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ....33

2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về quyết định truy tố bị can

của Viện kiểm sát.................................................................................................33

2.1.1. Quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng .........................................33

2.1.2. Quyết định truy tố bị can không có cáo trạng..........................................46

2.2. Thực tiễn về quyết định truy tố bị can của Viện kiểm sát ........................48

2.2.1. Những kết quả đạt được ...........................................................................48

2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót khi quyết định việc truy tố bị can qua số liệu

thống kê 05 năm từ năm 2014 đến 2019 ............................................................52

2.2.3. Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc.....................................................61

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2........................................................................................68

CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT

TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ BỊ CAN...........................70

3.1. Yêu cầu nâng cao chất lƣợng trong việc ban hành quyết định truy tố bị

can .........................................................................................................................70

3.2. Một số giải pháp cụ thể ................................................................................75

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ......................................75

3.2.2. Các giải pháp khác...................................................................................83

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3........................................................................................90

KẾT LUẬN..............................................................................................................91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Cải cách tư pháp là một trong những vấn đề cơ bản của quá trình đổi mới

hoạt động của các cơ quan tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết số 49-NQ/TW

ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã

nêu rõ: "Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định

pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa

đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ

quan tư pháp còn bất hợp lý, đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình

độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một

số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp, vẫn còn tình

trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương

tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu”.

Cùng với những hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng

trước nhiều thách thức, tình hình phạm tội diễn biến ngày càng phức tạp, với tính

chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng, tinh vi, hiện đại. Đồng thời, yêu cầu của

công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp

phải thực sự là chỗ dựa trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công

dân, những người yếu thế trong xã hội và phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật,

pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm.

Pháp luật TTHS Việt Nam quy định trách nhiệm xác định sự thật VAHS một

cách chính xác, đầy đủ, khách quan và toàn diện là nhiệm vụ của các cơ quan tiến

hành tố tụng. Trong quá trình xác định sự thật của vụ án, các cơ quan tiến hành tố

tụng có trách nhiệm phải chứng minh tội phạm và người phạm tội theo quy định của

BLTTHS trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Để đưa người phạm tội

ra Tòa án để xét xử thì cần có quyết định truy tố của cơ quan VKS. Tuy nhiên, không

phải vụ án nào cũng được điều tra, truy tố, xét xử theo đúng trình tự, thủ tục quy định

của BLTTHS, trong thực tế việc điều tra một số vụ án còn có nhiều thiếu sót, vi phạm

pháp luật. Từ đó, VKS không đủ căn cứ để truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để

xét xử hoặc việc ban hành quyết định truy tố bị can không đúng theo quy định của

BLTTHS và các văn bản hướng dẫn của ngành kiểm sát là một trong các nguyên

nhân dẫn đến tình trạng VKS truy tố nhưng Tòa án tuyên bị can không phạm tội hoặc

2

vụ án bị hủy, sửa để điều tra, truy tố, xét xử lại làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án

trong đó có trách nhiệm của VKS khi ban hành quyết định truy tố không căn cứ chính

xác và toàn diện HSVA hoặc không tuân thủ quy định của BLTTHS và hướng dẫn

của ngành kiểm sát. Pháp luật TTHS nước ta quy định về việc sau khi nhận HSVA và

bản KLĐT, đề nghị truy tố của CQĐT thì VKS phải nghiên cứu hồ sơ, đánh giá

chứng cứ, toàn bộ HSVA khách quan, toàn diện để xem xét có đủ căn cứ tiếp tục truy

cứu TNHS đối với người phạm tội hay không hoặc phải ban hành quyết định tố tụng

khác để tiếp tục giải quyết VAHS đúng quy định của pháp luật như: quyết định trả hồ

sơ điều tra bổ sung, quyết định định chỉ, tạm đình chỉ hoặc VKS có thể tự mình tiến

hành một số hoạt động điều tra như đối nhất, thực nghiệm điều tra, phúc cung bị can

để có căn cứ quyết định việc truy tố bị can bằng bản cáo trạng hoặc bằng quyết định

truy tố theo thủ tục rút gọn. Nội dung quyết định truy tố đều phải căn cứ trên nội

dung HSVA đã được kiểm tra, đánh giá các chứng cứ, tài liệu chứng minh tội phạm,

người phạm tội một cách khách quan, toàn diện. Việc ban hành quyết định truy tố bị

can đúng quy định của BLTTHS làm cơ sở cho hoạt động xét xử của Tòa án được

thực hiện thuận lợi, vụ án được giải quyết nhanh chóng, bản án xử phạt bị can là đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời, quyết định truy tố đúng người, đúng tội,

đúng pháp luật là thực hiện đúng chức năng THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp của

VKS trong TTHS.

Vì vậy, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn trong việc quyết định truy tố bị

can của VKS để truy cứu TNHS đối với người phạm tội có ý nghĩa quan trọng, cấp

thiết để VKS áp dụng đúng đắn và chính xác quy định của BLTTHS trong giai đoạn

hiện nay cũng như trong thời gian tới để đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm và

công cuộc cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta đối với các cơ quan tư pháp

trong đó có cơ quan VKS. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài "Quyết định truy tố bị can

theo luật tố tụng hình sự Việt Nam" là luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Việc ban hành quyết định truy tố bị can của VKS đã có những ý kiến phản

ánh, những bài nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành

như Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Tòa án, Tạp chí Kiểm sát, các tài liệu tập

huấn nghiệp vụ của ngành kiểm sát của các học giả đang công tác trong ngành kiểm

sát nhưng ở mức độ đơn lẻ và thường bàn về thẩm quyền, hình thức của quyết định

truy tố hoặc quyết định truy tố bị can, kỹ năng ban hành quyết định truy tố. Ngoài

3

ra, quyết định truy tố bị can còn được đề cập một phần nhỏ của các giáo trình, sách

bình luận khoa học BLTTHS như:

- Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự

Việt Nam (Tái bản có sửa đổi, bổ sung), Nxb Hồng Đức năm 2019.

- GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh, TS. Phan Trung Hoài (2015), Bình luận khoa

học Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Nxb Chính trị quốc gia.

- TS. Lê Đức Xuân (2016), Kỹ năng xây dựng cáo trạng, Tài liệu tập huấn

nghiệp vụ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước.

- Hoàng Ngọc Cẩn (2015), Tài liệu bồi dưỡng kỹ năng xây dựng cáo trạng,

Tài liệu tập huấn nghiệp vụ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai.

- Võ Ngọc Thạch (2011), "Các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát trong

giai đoạn truy tố”, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ

Chí Minh.

- TS. Lê Hữu Thể (2008), “Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động

tư pháp trong giai đoạn điều tra”, NXB Tư pháp.

- TS. Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb Tư pháp.

- Phạm Tuân (2019), “Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về thủ tục

rút gọn và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (17)

- Ths. Nguyễn Ngọc Tuấn (2019), “Một số vấn đề về giải quyết khiếu nại đối

với bản cáo trạng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân

dân, (17)

Mặt khác, trong những năm gần đây, các Vụ nghiệp vụ của VKSND tối cao,

VKSND cấp cao tại 03 khu vực miền Bắc, miền Trung, miền Nam (Hà Nội, Đà

Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh), qua công tác THQCT, kiểm sát việc xét xử phúc thẩm,

giám đốc thẩm các VAHS đã tổng kết thực tiễn các trường hợp VKS truy tố nhưng

Tòa án tuyên không phạm tội hoặc vụ án bị hủy để điều tra, truy tố, xét xử lại do vi

phạm nghiêm trọng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự trong không gian, thời gian xác

định hoặc các vụ án cụ thể. Đây là các báo cáo chuyên đề rút kinh nghiệm chuyên sâu

về nghiệp vụ giải quyết các VAHS có giá trị tham khảo quan trọng đối với việc đánh

giá thực trạng quyết định truy tố của VKS khi thực hiện chức năng THQCT.

Các công trình nghiên cứu, tài liệu của những tác giả trên chỉ đề cập đến hình

thức của quyết định truy tố bị can là một quyết định tố tụng của VKS theo quy định

của BLTTHS nhằm đưa vụ án ra Tòa án để xét xử; các báo cáo chuyên đề rút kinh

nghiệm nghiệp vụ của VKSND tối cao, VKSND cấp cao tại các khu vực Hà Nội,

4

Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh chỉ nêu lên thực trạng án hình sự bị hủy, sửa, Tòa án

tuyên bị can không phạm tội chứ không làm rõ được việc ban hành quyết định truy

tố không đúng quy định của BLTTHS, không căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong

HSVA là một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này.

Các bài viết, công trình nghiên cứu trên thì không có tài liệu hoặc tác giả nào

nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về lý luận và thực tiễn để thấy hết sự bất cập hoặc

nhận thức tầm ảnh hưởng quan trọng của việc ban hành quyết định truy tố bị can,

đảm bảo việc quyết định truy tố của VKS đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp

luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, góp phần

đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục đích nghiên cứu:

Luận văn được nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận, vấn đề pháp lý và

thực tiễn quyết định truy tố bị can từ đó kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả

áp dụng pháp luật về quyết định truy tố bị can trước Tòa án.

Nhiệm vụ nghiêm cứu:

- Làm rõ những vấn đề lý luận về quyết định truy tố bị can.

- Phân tích làm rõ các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về quyết định

truy tố bị can.

- Đánh giá thực tiễn VKS quyết định truy tố bị can bằng cáo trạng hoặc

không có cáo trạng.

- Kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quyết định

truy tố bị can.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu khía cạnh pháp lý và thực tiễn về nội dung, hình thức

quyết định truy tố bị can bằng cáo trạng hoặc không bằng cáo trạng.

Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Luận văn nghiên cứu quyết định truy tố bị can bằng cáo trạng

trong đa số các trường hợp và một số trường hợp không có cáo trạng.

Về không gian: Luận văn đánh giá thực tiễn quyết định truy tố bị can trong

phạm vi cả nước.

Về thời gian: Luận văn đánh giá thực tiễn quyết định truy tố bị can của VKS

từ năm 2014 đến năm 2019.

5

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được hoàn thiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện

chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và

thực hành quyền công tố trong giai đoạn hiện nay.

Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp

phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử,

phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu các quyết định truy tố bị can cụ thể

của một số vụ án điển hình. Đặc biệt, tác giả khảo sát 200 bản án và 120 bản cáo

trạng để đánh giá thực tiễn quyết định truy tố bị can.

6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Luận văn đóng góp những giá trị nhất định về phương diện lý luận, lập pháp

và thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam.

- Về lý luận, luận văn đã góp phần hoàn thiện về mặt lý luận việc ban hành

quyết định truy tố bị can của VKS.

- Về lập pháp, luận văn đã nêu những bất cập, thiếu sót, vướng mắc của pháp

luật TTHS và đưa ra một số giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS hiện hành.

- Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu giúp cán bộ, KSV trong ngành kiểm sát có

nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn về tầm quan trọng của quyết định truy tố bị can để

trên cơ sở đó góp phần nâng cao trách nhiệm của VKS khi thực hiện chức năng

THQCT, quyết định việc truy tố bị can.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận

văn gồm có 3 chương:

Chƣơng 1. Lý luận chung về quyết định truy tố bị can của Viện kiểm sát.

Chƣơng 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyết định

truy tố bị can và thực tiễn áp dụng.

Chƣơng 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về

quyết định truy tố bị can.

6

CHƢƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ BỊ CAN

CỦA VIỆN KIỂM SÁT

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa quyết định truy tố bị can của Viện

kiểm sát

1.1.1. Khái niệm quyết định truy tố bị can của Viện kiểm sát

Nhận thức về quyết định tố tụng của VKS:

Theo Điều 3 Luật Tổ chức VKSND quy định “Thực hành quyền công tố là

hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc

tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra,

truy tố, xét xử vụ án hình sự”. Như vậy, có thể thấy THQCT được thể hiện dưới

dạng các hoạt động tố tụng cụ thể, nghĩa là nó phải được chuyển hóa thành các dạng

hoạt động thực tế được điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật trong lĩnh vực

TTHS. Do đó, để thực hiện hoạt động THQCT trong TTHS thì VKSND phải ban

hành các quyết định tố tụng từ khi giải quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt

quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử, nhiệm vụ THQCT của VKS theo với

nhiệm vụ trọng tâm là không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người

phạm tội1

góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ

nghĩa, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và

chống tội phạm. Ví dụ: Trong giai đoạn điều tra, khi CQĐT khởi tố vụ án, khởi tố

bị can thì các quyết định khởi tố vụ án phải được VKS xem xét, kiểm sát việc tuân

theo pháp luật, quyết định khởi tố bị can của CQĐT phải được VKS phê chuẩn thì

mới có hiệu lực thi hành nếu quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của CQĐT

không có căn cứ và trái pháp luật thì VKS có trách nhiệm hủy bỏ. Những quyết định

tố tụng của VKS trong hoạt động TTHS là các văn bản căn cứ vào quy định của

pháp luật mà trọng tâm là những quy định của BLHS và BLTTHS để truy cứu

TNHS đối với người phạm tội.

1 Khoản 2 Điều 3 quy định. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: Mọi hành

vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh,

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người

phạm tội;

7

Theo Từ điển tiếng Việt giải thích thì “quyết định” là đề ra, định ra một cách

dứt khoát việc phải làm2

hoặc phải thực hiện cho được việc sẽ làm3

và Từ điển luật

học của Bộ Tư pháp giải thích quyết định là hình thức văn bản pháp luật bao gồm cả

văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật do cơ quan nhà nước có

thẩm quyền ban hành4

. Như vậy, có thể hiểu quyết định là văn bản pháp luật để thực

hiện nhiệm vụ, một hoạt động.

Từ những phân tích trên, quyết định tố tụng của VKS là văn bản pháp lý do

VKS ban hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát hoạt động tư

pháp trong hoạt động TTHS. Ví dụ: quyết định khởi tố vụ án hình sự (trong một số

trường hợp), quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn

lệnh tạm giam…

Nhận thức về truy tố trong tố tụng hình sự:

Dưới góc độ ngôn ngữ thì truy tố được hình thành từ hai từ “truy” và “tố”.

Theo từ điển tiếng Việt thì “truy” có nghĩa là: xét cho kì ra sự thật về một sự việc

nào đó, “tố” có nghĩa là: nói công khai cho mọi người biết việc làm sai trái, phạm

pháp của người khác5

. Theo giải thích của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp thì

“Truy tố” là việc đưa người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử về hành vi vi phạm

pháp luật hình sự6

. Ở Việt Nam, quyền công tố là quyền của nhà nước truy cứu

trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và quyền này nhà nước giao cho

VKSND thực hiện. Để làm tốt nhiệm vụ này, VKSND có trách nhiệm đảm bảo việc

thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Sau khi

kết thúc điều tra, CQĐT làm bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố rồi gửi cùng hồ

sơ vụ án đến VKS. Trên cơ sở đó, VKS quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và

thực hiện sự buộc tội đó tại phiên tòa7

.

Về mặt thuật ngữ Hán - Việt thì công tố có nghĩa là “điều tra, truy tố và buộc

tội kẻ phạm phạm trước tòa án”8

. Để làm được điều này, thì cơ quan có chức năng

THQCT phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác

2 Trung tâm khoa học và xã hội nhân văn quốc gia (2005), Từ điển tiếng việt, NXB văn hóa Sài Gòn, tr.1332;

https://vi.wiktionary.org/wiki/quy%E1%BA%BFt_%C4%91%E1%BB%8Bnh#Ti%E1%BA%BFng_Vi%E1

%BB%87t;

3

http://tratu.coviet.vn/hoc-tieng-anh/tu-dien/lac-viet/V-V/quy%e1%ba%bft%20%c4%91%e1%bb%8bnh.html

4 Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.658.

5 Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), tlđd (4), tr.188.

6 Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), tlđd (4), tr.820.

7 Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), tlđd (4), tr.188.

8 Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển tiếng Việt, in lần thứ 6, đợt 2, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng –

Trung tâm từ điển, Hà Nội-Đà Nẵng, tr. 204.

8

định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can9

ra trước

Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa10

.

Từ những nhận định trên, truy tố là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự

do cơ quan có chức năng THQCT thực hiện theo trình tự, thủ tục tố tụng hình sự

nhằm đưa người phạm tội ra trước Tóa án để xét xử, để thay mặt Nhà nước buộc tội

đối với người phạm tội tại phiên tòa. Truy tố, cùng với hoạt động điều tra, hoạt

động xét xử tạo thành một cơ chế vận hành liên tục, thống nhất với mục đích cuối

cùng là nhân danh Nhà nước để xử lý hành vi phạm tội, người phạm tội, bảo vệ lợi

ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Có thể rút ra những đặc

điểm của hoạt động truy tố như sau:

- Đối tượng của hoạt động truy tố:

Truy tố là hoạt động truy cứu TNHS đối với người phạm tội để thực hiện sự

buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội được thực hiện theo trình tự, thủ tục

quy định của BLTTHS. Để truy cứu TNHS đối với người phạm tội thì các cơ quan

có thẩm quyền THTT trong phạm vi, nhiệm vụ quyền hạn của mình phải ra quyết

định khởi tố vụ án, khởi tố bị can (thông thường là CQĐT ra quyết định khởi tố vụ

án, khởi tố bị can và VKS kiểm sát quyết định khởi tố vụ án, phê chuẩn quyết định

khởi tố bị can).

Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 BLTTHS 2015 thì bị can là người hoặc

pháp nhân bị khởi tố về hình sự có nghĩa là bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi

tố về một hay nhiều tội được quy định trong BLHS bằng một văn bản của cơ quan

có thẩm quyền là quyết định khởi tố bị can. Đồng thời, quyết định khởi tố bị can

phải được VKS phê chuẩn mới có hiệu lực thi hành. Nếu VKS không phê chuẩn

quyết định khởi tố bị can thì VKS phải hủy bỏ quyết định khởi tố bị can của CQĐT.

Như vậy, bị can là người bị buộc tội và bị khởi tố về một hay nhiều tội do

BLHS quy định là tội phạm bằng quyết định khởi tố bị can của CQĐT và quyết

định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của VKS hoặc quyết định khởi tố bị can

của VKS (trong một số trường hợp). Do đó, đối tượng của hoạt động truy tố là bị

can mà hành vi phạm tội của họ đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội

phạm cụ thể được quy định trong BLHS và đã được chứng minh qua các thủ tục tố

tụng từ khởi tố, điều tra đến truy tố.

9 Bị can là người bị buộc tội và bị cơ quan có thẩm quyền THTT ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can

về một hay nhiều tội có dấu hiệu tội phạm được quy định trong BLHS.

10 Lê Hữu Thể, THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, tr. 40.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!