Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam
PREMIUM
Số trang
300
Kích thước
1.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1697

Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Bìa

1

QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA

TRONG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT

NAM

Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở

Việt Nam

2

Biên soạn: TRẦN THỊ HÕE – VŨ CÔNG GIAO

Bìa

3

Biên tập: NGUYỄN ĐĂNG DUNG – LÃ KHÁNH TÙNG

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI,

VĂN HÓA

TRONG PHÁP LUẬT VÀ

THỰC TIỄN

Ở VIỆT NAM

(SÁCH THAM KHẢO)

Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở

Việt Nam

4

NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG XÃ HỘI

HÀ NỘI - 2011

Giới thiệu

5

GIỚI THIỆU

Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa là một trong hai nhóm quyền

cơ bản được ghi nhận và bảo đảm trong luật pháp quốc tế và

pháp luật của các quốc gia. Các quyền này được ghi nhận

ngay trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948, sau đó

được cụ thể hóa tại một trong hai Công ước cơ bản nhất về

nhân quyền là Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội,

văn hóa năm 1966.

Xét về phương diện chính trị, việc thúc đẩy các quyền kinh tế,

xã hội, văn hóa có sự đóng góp to lớn của các nước khối xã hội

chủ nghĩa (XHCN) ở diễn đàn Liên Hợp Quốc. Trong thời kỳ

Chiến tranh Lạnh, niềm tự hào và sức hấp dẫn của các nước

XHCN trên lĩnh vực quyền con người là đã thiết lập và vận hành

được một cơ chế pháp lý và xã hội rộng khắp nhằm bảo đảm

hiệu quả các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cho tất cả người

dân.

Ở nước ta, từ khi giành được độc lập đến nay, Đảng và

Nhà nước luôn quan tâm tới việc bảo vệ và thúc đẩy sự hưởng

thụ các quyền con người nói chung, đặc biệt là các quyền kinh

Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở

Việt Nam

6

tế, xã hội, văn hóa. Việt Nam cũng đã tham gia Công ước quốc

tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa từ rất sớm (năm 1982).

Mặc dù vậy, do một số lý do khách quan và chủ quan, việc

nghiên cứu về quyền con người nói chung, về các quyền kinh

tế, xã hội, văn hóa nói riêng ở nước ta trong thời gian qua vẫn

còn hạn chế, dẫn đến việc hiểu biết chưa đầy đủ hoặc sai lệch

về nhóm quyền này.

Để khắc phục những hạn chế kể trên, cần thiết phải có thêm

nhiều công trình nghiên cứu về các tiêu chuẩn quốc tế, pháp

luật và thực tiễn quốc gia về các quyền kinh tế, xã hội, văn

hóa. Vì vậy, mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu đề cập

đến vấn đề này, trong khuôn khổ Chương trình Cải cách Hành

chính và Quản trị công (hợp tác giữa hai chính phủ Việt Nam

và Đan Mạch trong giai đoạn 2007-2011, do Tổ chức hỗ trợ

phát triển Đan Mạch - DANIDA tài trợ), Khoa Luật Đại học

Quốc gia Hà Nội đã tổ chức nghiên cứu đề tài “Bảo đảm các

quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở

Việt Nam” do Thạc sỹ Trần Thị Hòe làm chủ nhiệm.

Mặc dù nhiều phần trong kết quả của công trình nghiên cứu

này đã được sử dụng để biên soạn cuốn Giáo trình Lý luận

và Pháp luật về Quyền con người của Khoa Luật, song sẽ

vẫn hữu ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy về nhân quyền

nếu toàn bộ báo cáo nghiên cứu được xã hội hóa. Xuất phát từ

nhận thức đó, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản

cuốn sách này, trong đó tập hợp toàn bộ kết quả nghiên cứu

chủ yếu của đề tài kể trên. Để tiện cho sự tham khảo của bạn

Giới thiệu

7

đọc, ngoài phần nội dung, cuốn sách này còn có Phụ lục bao

gồm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948 và Các nguyên tắc

Limburg (The Limburg Principles) – một trong những văn kiện

quốc tế rất quan trọng để hiểu rõ về nội hàm của nhóm quyền

này.

Do những giới hạn về nguồn lực và thời gian của đề tài

nghiên cứu kể trên, mà kết quả thể hiện ở cuốn sách này, chỉ

có thể đề cập đến những kiến thức cơ bản, chưa thể đi sâu

phân tích mọi khía cạnh của pháp luật và thực tiễn quốc gia về

các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Dù vậy, chúng tôi hy vọng

cuốn sách sẽ có tác dụng tham khảo hữu ích với độc giả trong

quá trình nghiên cứu về nhân quyền và pháp luật về nhân

quyền.

Chúng tôi mong nhận được ý kiến góp ý của độc giả để tiếp

tục triển khai những đề tài nghiên cứu toàn diện và sâu hơn

nữa trên lĩnh vực này trong thời gian tới.

Hà Nội, tháng 12 năm 2010

KHOA LUẬT, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở

Việt Nam

8

Mục lục

9

MỤC LỤC

Các từ viết tắt trong sách ..............................................11

Phần I......Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong luật nhân

quyền quốc tế.....................................................13

Phần II. Quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước Việt Nam

về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa...............48

Phần III...... Thành tựu và thách thức trong việc bảo đảm

quyền kinh tế, xã hội,

văn hóa ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay ....100

Kết luận và kiến nghị ..................................................162

Tài liệu tham khảo ......................................................171

Phụ lục: Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, 1948 .......177

Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở

Việt Nam

10

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị,

1966............................................................................188

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn

hóa, 1966....................................................................225

Các nguyên tắc Limburg về việc thực thi Công ước quốc

tế về các quyền

kinh tế, xã hội và văn hóa, 1986 ................................245

Hướng dẫn Maastricht về sự vi phạm các quyền kinh tế,

xã hội và văn hóa, 1997..............................................271

Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,

năm 1992 (trích) .........................................................289

Các từ viết tắt trong sách

11

CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG

SÁCH

Chữ viết tắt Tên/cụm từ đầy đủ

LHQ Liên Hợp Quốc (United Nations)

ĐHĐ Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (General Assembly)

HĐBA Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (Security Council)

HĐQT Hội đồng Quản thác Liên Hợp Quốc (Trusteeship

Council)

ECOSOC Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên Hợp Quốc (Economic

and Social Council)

WHO Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization)

UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Xã hội Liên Hợp Quốc

(United Nations Educational, Scientific and Cultural

Organization)

ICJ Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice)

CEDAW Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử

chống lại phụ nữ (Convention on the Elimination of All

Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở

Việt Nam

12

Forms of Discrimination Against Women)

CRC Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (The

UN Convention on the Rights of the Child)

ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị

(International Covenant on Civil and Political Rights)

ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa

(International Covenant on Economic, Social and

Cultural Rights)

UDHR Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (Universal

Declaration of Human Rights)

CHR Ủy ban quyền con người Liên Hợp Quốc (Commission

on Human Right)

HRC Hội đồng Quyền con người Liên Hợp Quốc (Human

Rights Council)

ILO Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour

Organization)

IOM Tổ chức Di cư Thế giới (International Organization for

Migration)

UNAIDS Chương trình phòng chống AIDS của Liên Hợp Quốc

(Joint United Nations Program on AIDS)

PCIJ Tòa án Công lý Quốc tế thường trực (Permanent Court

of International Justice)

Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong luật Nhân quyền quốc tế

13

PHẦN I

QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN

HÓA TRONG LUẬT NHÂN

QUYỀN QUỐC TẾ

1.1. Vị trí của quyền kinh tế, xã hội, văn hóa

trong luật nhân quyền quốc tế

Quyền con người là vấn đề có nội dung rộng lớn và phức

tạp. Đây là khái niệm vừa mang tính trừu tượng với ý nghĩa

như một quan niệm, xu hướng, khát vọng, lại vừa có ý nghĩa

cụ thể với những nội dung xác định.

Có nhiều cách phân loại các quyền và tự do cá nhân của

con người nhưng cách phổ biến nhất đang được áp dụng hiện

nay đó là phân thành các quyền con người về dân sự, chính trị

và các quyền con người về kinh tế, xã hội, văn hóa. Ngoài ra,

các quyền con người còn được biết đến với ý nghĩa là các

quyền của nhóm, ví dụ như quyền của phụ nữ, trẻ em, người

khuyết tật, người thiểu số…

Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở

Việt Nam

14

Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa có một vị trí rất quan trọng

trong hệ thống quyền con người. Do vậy, trong quá trình

nghiên cứu về nhân quyền, chúng ta không thể không đi sâu

nghiên cứu quyền kinh tế, xã hội, văn hóa như một bộ phận

cơ bản, thiết yếu trong tổng thể quyền con người. Xét lịch sử

pháp điển hóa các quyền con người, các tiêu chuẩn quốc tế

về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được coi là phát triển

muộn hơn các quyền dân sự, chính trị. Tuy nhiên, trên bình

diện lịch sử nhân loại nói chung, có cơ sở nói rằng, các

quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được quan tâm đề cập đồng

thời, hoặc thậm chí sớm hơn các quyền dân sự, chính trị.

Điều này thể hiện qua những tư tưởng và khát vọng giải

phóng con người khỏi đói rét, bệnh tật… được phản ánh

trong hầu hết các học thuyết chính trị, tôn giáo chủ yếu. Trên

thực tế, quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đã được ghi nhận

trong pháp luật của nhiều quốc gia thời kỳ Cổ - Trung đại

thông qua những quy định về sự bảo vệ của nhà nước và

cộng đồng đối với các nhóm cư dân yếu thế trong xã hội.

Theo dòng chảy của lịch sử, quyền kinh tế, xã hội tiếp tục

được phát triển và thừa nhận trong pháp luật của nhiều quốc

gia. Đơn cử, ngay từ năm 1850, ở Đức đã xuất hiện quỹ bảo

trợ cho công nhân và đây là một trong những tiền đề để năm

1898 diễn ra Hội nghị quốc tế (tổ chức tại Đức) bàn về điều

kiện làm việc cho công nhân. Năm 1900, Hiệp hội quốc tế

bảo vệ pháp lý cho người lao động đã được thành lập, có trụ

sở tại Bazel (Thụy Sỹ). Tiếp đó, các năm 1905-1906, Chính

phủ Thụy Sỹ đã tổ chức các hội nghị tại Bon trong đó đã

Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong luật Nhân quyền quốc tế

15

thông qua các công ước đầu tiên trên lĩnh vực lao động

nhưng do Chiến tranh Thế giới I, những cố gắng ban đầu

này đã bị tạm dừng và chỉ được tiếp tục sau chiến tranh với

việc thành lập Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) vào năm

1919 - một tổ chức có những nỗ lực và đóng góp đặc biệt

vào việc thúc đẩy một số quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của

người lao động.

Sau các cuộc Chiến tranh Thế giới I và II, thế giới lâm vào

tình trạng mất việc làm và nạn nghèo đói tràn lan. Do đó, ngày

càng có nhiều người cho rằng con người phải bảo đảm các

quyền kinh tế, xã hội không chỉ cho chính mình mà còn để duy

trì tự do cá nhân và dân chủ. Điều này cho thấy tầm quan trọng

của các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và củng cố quan điểm

rằng ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng vẫn cần phải bảo đảm

các quyền kinh tế, xã hội cơ bản cho tất cả mọi người. Đây là

quan điểm có ý nghĩa rất quan trọng trong bối cảnh nạn thất

nghiệp, nghèo đói và chênh lệch về thu nhập không chỉ ở các

nước thuộc thế giới thứ ba mà còn ở chính các nước phương

Tây.

Như vậy, trên một bình diện nhất định, nội dung của một số

quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được đề cập từ rất sớm. Tuy

nhiên, chỉ đến khi Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR)

năm 1948 được Liên Hợp Quốc thông qua thì các quyền này

mới chính thức được pháp điển hóa trong luật quốc tế, và đến

năm 1966, với việc Liên Hợp Quốc thông qua hai công ước

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!