Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam
PREMIUM
Số trang
193
Kích thước
1.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
816

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH

QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN,

BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự

Mã số: 62.38.40.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ

TP. HỒ CHÍ MINH - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số

liệu nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả

những số liệu và kết quả nghiên cứu đó. Luận án này chưa từng được ai công bố

trong bất kỳ công trình nào khác.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày …… tháng ……. năm 2014

NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BCVND : Bào chữa viên nhân dân

BLHS : Bộ luật hình sự

CCTP : Cải cách tư pháp

CTN : Chưa thành niên

CQĐT : Cơ quan điều tra

CƯQT : Công ước quốc tế

HĐXX : Hội đồng xét xử

HTND : Hội thẩm nhân dân

NBC : Người bào chữa

QBC : Quyền bào chữa

QCN : Quyền con người

THTT : Tiến hành tố tụng

TTHS : Tố tụng hình sự

TAND : Tòa án nhân dân

TNHS : Trách nhiệm hình sự

TGPL : Trợ giúp pháp lý

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

VAHS : Vụ án hình sự

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

Phần 1: PHẦN MỞ ĐẦU 1

Phần 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 8

Phần 3: NỘI DUNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 31

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO

CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA

THÀNH NIÊN 31

1.1. Khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa

thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam 31

1.2. Vai trò và đặc điểm của quyền bào chữa của bị can, bị cáo là

người chưa thành niên 42

1.3. Quyền bào chữa của người chưa thành niên trong pháp luật tố

tụng hình sự nước ngoài 66

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ

CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 80

2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị

can, bị cáo là người chưa thành niên 80

2.2. Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người

chưa thành niên trong tố tụng hình sự 112

CHƯƠNG 3: TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA

CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA

THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 137

3.1. Yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa trong cải cách tư pháp và xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 137

3.2. Một số giải pháp 143

KẾT LUẬN 163

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1

Phần 1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người (QCN) là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử, là một

trong những giá trị quý báu nhất của nền văn minh nhân loại trong thời đại ngày

nay. Những giá trị nền tảng tạo nên QCN là: Nhân phẩm - Tự do - Bình đẳng -

Nhân đạo - Khoan dung và Trách nhiệm. Đây là những giá trị vốn có ở tất cả các

nền văn hóa, được quốc tế hóa nhằm bảo vệ nó trong đời sống xã hội. Trong các

quyền cơ bản đó, QCN trong tố tụng hình sự (TTHS), trong đó có quyền trẻ em và

việc bảo đảm quyền trẻ em là rất quan trọng và vì thế việc nghiên cứu làm sáng tỏ

những giá trị cao quý về QCN, nhất là các quyền nêu trên đều được quan tâm

nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu khoa học.

Việt Nam đang trong tiến trình cải cách tư pháp (CCTP) nhằm xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định

quyết tâm chính trị mạnh mẽ của mình trong việc thực hiện chủ trương và triển khai

các nhiệm vụ CCTP. Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ chính trị về CCTP đã tạo sự

chuyển biến tích cực trong nhận thức của cán bộ cơ quan tư pháp, các ngành, các

cấp và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác tư pháp. Qua đó, hệ

thống các cơ quan tư pháp đã được củng cố cả về tổ chức bộ máy và công tác cán

bộ. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử và các hoạt động bổ trợ tư pháp từng bước

được nâng cao. Việc bắt, giam giữ đã được xem xét, kiểm tra thường xuyên, công

tác xét xử được xem xét thận trọng đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Sau tám năm thực thi chiến lược CCTP, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhận xét

bước đầu quá trình cải cách đã thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ

quan tư pháp, hướng tới xây dựng nền tư pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ,

nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người”. Tuy nhiên, công tác tư pháp

vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu,

2

trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, vấn đề bảo

đảm QCN nhất là quyền bào chữa (QBC) của bị can, bị cáo nói chung và của bị can,

bị cáo là người chưa thành niên (CTN) nói riêng còn có hạn chế, sai sót. Vẫn còn

tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử, nhất là đối với bị can, bị cáo là

người CTN. Pháp luật TTHS đã quy định thủ tục giải quyết những vụ án do người

CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy

nhiên, trong thực tiễn vận dụng do xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, chủ

quan nên chất lượng điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm các

quyền và lợi ích hợp pháp của họ, còn bộc lộ nhiều thiếu sót, dẫn đến việc giải quyết

những vụ án không đạt hiệu quả cao cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người

CTN bị xâm hại, chưa đáp ứng đòi hỏi của tiến trình đổi mới tư pháp ở Việt Nam.

Xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu về QBC trở nên cấp thiết

hơn nữa khi Hiến pháp 2013 bên cạnh việc xác định nguyên tắc tranh tụng là

nguyên tắc trong hoạt động xét xử của tòa án cũng đã xác định QBC là một trong

các QCN, quyền cơ bản của công dân. Pháp luật hiện hành, cụ thể là Bộ luật TTHS

2003 đã dành một chương riêng (chương XXXII) quy định về thủ tục đối với người

CTN. Đó là những quy định thủ tục đặc biệt về việc bắt, tạm giữ, tạm giam; về thủ

tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà

trường, của người bào chữa (NBC)… đối với những vụ án có người CTN phạm tội.

Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy những quy định của Bộ luật TTHS 2003 đối

với người CTN phạm tội tuy đã tương đối hoàn chỉnh, nhưng không khó để nhận

thấy tính chưa chặt chẽ, chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của các

quy định này. Những bất cập này đã dẫn đến sự tùy tiện của cơ quan tiến hành tố

tụng (THTT) và người THTT xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người

CTN. Với những vấn đề nêu trên, quy định của pháp luật TTHS đối với người CTN

phạm tội đặt ra những vấn đề cần phải hoàn thiện theo hướng cần thiết phải có

những quy định cụ thể, chặt chẽ, thống nhất hơn nữa trong Bộ luật TTHS về thủ tục

tố tụng đối với bị can, bị cáo là người CTN.

3

Về mặt thực tiễn, việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với những vụ án

mà bị can, bị cáo là người CTN trong những năm qua cho thấy khi áp dụng những

quy định về thủ tục đặc biệt này còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Nguyên nhân

một phần là do cơ quan THTT chưa nắm vững và vận dụng chưa chính xác, triệt để

quy định của pháp luật tố tụng liên quan đến quá trình giải quyết vụ án do người

CTN phạm tội và một phần do nhận thức của một bộ phận cán bộ những người

THTT còn xem nhẹ vai trò CCTP, thậm chí do lợi ích cục bộ, không chấp hành

nghiêm ngặt các quy định của pháp luật TTHS, thiếu tôn trọng và xem nhẹ quyền

lợi của bị can, bị cáo là người CTN.

Từ các góc độ quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật nói trên,

việc nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề bảo đảm QCN nói chung và QBC của bị can, bị

cáo là người CTN trong TTHS nói riêng theo tinh thần CCTP ở Việt Nam hiện nay

là hoàn toàn cấp thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quyền

bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt

Nam” làm luận án Tiến sĩ.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào cũng

đều trả lời cho câu hỏi: việc thực hiện công trình nghiên cứu nhằm vào cái gì? Đây

cũng chính là ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu. Không nằm ngoài cách tiếp

cận trên, chúng tôi xác định mục tiêu của luận án nhằm nâng cao hiệu quả thực thi

cơ chế đảm bảo QBC của bị can bị cáo là người CTN.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nếu như mục tiêu nghiên cứu đặt ra câu hỏi: nghiên cứu nhằm đạt được cái

gì thì nhiệm vụ nghiên cứu lại trả lời cho câu hỏi – cần phải làm như thế nào để đạt

được mục tiêu.

Trên cơ sở mục tiêu nêu trên, chúng tôi xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu như

sau:

4

Thứ nhất, phải phân tích, đánh giá được sự tác động của lý thuyết về QBC

của bị can, bị cáo nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng đến chất

lượng của quy định pháp luật về quyền này.

Thứ hai, xác định, phân tích được các yếu tố tạo nên tính chất đặc thù của bị

can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia tố tụng.

Thứ ba, phân tích và đánh giá được thực trạng quy định pháp luật về QBC

của bị can, bị cáo là người CTN cũng như quy định pháp luật về cơ chế đảm bảo

thực thi quyền này.

Thứ tư, phân tích và đánh giá quy định pháp luật của một số quốc gia điển

hình về QBC của bị can, bị cáo là người CTN.

Thứ năm, trên cơ sở so sánh quy định pháp luật Việt Nam về QBC của bị

can, bị cáo là người CTN với kinh nghiệm của một số nước, đưa ra được các kiến

nghị nâng cao hiệu quả nhằm đảm bảo thực thi quyền này.

3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu

3.1. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu có thể hiểu là đối tượng nghiên cứu được khảo sát, nghiên

cứu trong phạm vi nhất định về mặt thời gian, không gian và lĩnh vực nghiên cứu.

Về mặt thời gian:

- Về văn bản pháp luật, luận án chủ yếu được viết trên cơ sở phân tích, đánh

giá quy định pháp luật TTHS từ năm 1998 đến nay. Bên cạnh đó để làm rõ quá trình

hình thành và phát triển của chế định QBC nói chung và QBC của bị can, bị cáo là

người CTN nói riêng luận án có để cập tới những nội dung chủ yếu của quy định

pháp luật về vấn đề này từ giai đoạn năm 1945.

- Về số liệu khảo sát thủ tục TTHS, luận án sẽ phân tích trên các số liệu từ

trước năm 2009 đến năm 2012.

5

Về mặt không gian, đối tượng nghiên cứu sẽ được phân tích và đánh giá qua

quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Liên

Bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Về số liệu khảo sát, luận án sẽ thu thập số liệu về thực tiễn tiến hành hoạt

động tố tụng từ các Đoàn luật sư trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang,

Tiền Giang, Lâm Đồng; Tòa án nhân dân (TAND) tối cao và đặc biệt là TAND

Thành phố Hồ Chí Minh. Việc chọn lựa các địa bàn khảo sát nói trên được giải

thích bởi các lý do như sau:

Thứ nhất, người thực hiện luận án là cán bộ tư pháp của phía Nam với trên

10 năm kinh nghiệm thực tế thì việc tích góp và thu thập số liệu trên địa bàn phía

Nam sẽ là thuận lợi đầu tiên. Nhưng chính điều này cũng là một hạn chế cho việc

thu thập số liệu ở các địa bàn khác, đặc biệt là khu vực phía Bắc. Trên địa bàn khu

vực phía Nam, nếu xét về số lượng vụ án thì các tỉnh Kiên Giang, Tiền Giang, Lầm

Đồng và đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng vụ án hình sự (VAHS)

liên quan tới người CTN phạm tội cao hơn so với các địa bàn khác (có thể tham

khảo Phụ lục 3, 4, 5, 6). Xét về góc độ áp dụng pháp luật, mục đích của việc lựa

chọn các địa bàn và đối chiếu giữa thực tiễn tiến hành tố tụng tại Thành phố Hồ Chí

Minh với các địa bàn trên nhằm cho thấy mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ

quan của người THTT đến hiệu quả thực thi pháp luật nói chung và QBC của người

CTN nói riêng.

Thứ hai, việc không tiến hành lấy số liệu khảo sát từ khu vực phía Bắc hoàn

toàn không xuất phát từ việc phủ nhận giá trị thực tiễn của số liệu. Vấn đề ở chỗ,

thực tiễn THTT tại khu vực phía Bắc đã được nghiên cứu, xem xét qua các diễn

đàn, Hội thảo, tập huấn, các tài liệu báo cáo chuyên ngành. Cùng với những khó

khăn mang tính chất chủ quan và khách quan của việc thu thập số liệu, thay vì tiến

hành lấy khảo từ các cơ quan THTT ở phía Bắc, chúng tôi sẽ tiến hành phân tích

6

các số liệu có được từ các bài viết trên Hội thảo, diễn đàn khoa học và Báo cáo

chuyên ngành.

Về lĩnh vực nghiên cứu: trọng tâm nghiên cứu của luận án là các vấn đề lý

luận và thực tiễn về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam.

Bên cạnh đó, để có thêm tính thuyết phục cho cơ sở thực tiễn và lý luận của việc

đưa ra các kiến nghị, luận án thực hiện việc phân tích, so sánh với pháp luật tố tụng

của một số nước trên thế giới trong lĩnh vực liên quan. Việc lựa chọn hệ thống pháp

luật nước ngoài để so sánh được dựa trên các tiêu chí như tính tương đồng về các

điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tính chất điển hình về cơ sở pháp lý

cũng như thực tiễn của hoạt động TTHS liên quan tới đối tượng nghiên cứu của

luận án.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu khoa học là QBC của bị can, bị cáo là người CTN theo

quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật một số quốc gia.

4. Những điểm mới của luận án

Luận án đã làm rõ được một số những vấn đề lý luận về QBC của bị can, bị

cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam; đánh giá được vai trò của QBC và xác

định rõ những đặc điểm về nội dung và hình thức thực hiện QBC của bị can, bị cáo

là người CTN trong TTHS Việt Nam;

Luận án đã khái quát được pháp luật TTHS Việt Nam về QBC nói chung và

của bị can, bị cáo là người CTN nói riêng và làm rõ được sự hình thành, phát triển

của chế định này trong pháp luật TTHS Việt Nam, rút ra những kế thừa cần thiết

cho việc tiếp tục hoàn thiện chế định này;

Luận án đưa ra được những thông tin khoa học về chế định QBC của người

bị buộc tội là người CTN trong pháp luật của Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Cộng hòa

Liên bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đó là những quốc gia đại diện

cho các truyền thống pháp luật khác nhau, đồng thời cũng là những nước mà pháp

7

luật Việt Nam có những ảnh hưởng nhất định. Từ những nghiên cứu đó luận án có

những so sánh và tiếp thu có chọn lọc, từ đó kiến nghị những giải pháp về mặt pháp

luật nhằm hoàn thiện pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong

TTHS Việt Nam;

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận án đã đề xuất

được một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện QBC của

bị can, bị cáo là người CTN, đồng thời bảo đảm xác định sự thật của vụ án khách

quan, toàn diện và đầy đủ, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Đây là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện,

chuyên sâu về vấn đề QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS và các biện

pháp bảo đảm thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN.

Luận án với những phân tích sâu sắc các vấn đề lý luận về thủ tục TTHS đối

với người CTN phạm tội và những khảo sát, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng

các quy định pháp luật TTHS về QBC của bị can, bị cáo là người CTN sẽ đóng góp

không nhỏ trước hết cho các nhà lập pháp. Định hướng hoàn thiện Bộ luật TTHS

2003 và những kiến nghị cụ thể hoàn thiện các quy định cụ thể của Bộ luật TTHS

2003 liên quan đến QBC của bị can, bị cáo là người CTN hoàn toàn có thể là các

vấn đề mà các nhà lập pháp có thể nghiên cứu, cân nhắc, xem xét trong quá trình

sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS 2003.

Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên

cứu chuyên sâu, tài liệu tham khảo có giá trị trong hoạt động lập pháp TTHS, trong

thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cũng như trong nghiên cứu, giảng dạy về TTHS.

8

Phần 2

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS là nội dung được nhiều nhà

nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước đề cập. Đặc biệt, QBC của bị can, bị cáo là

người CTN trong TTHS luôn được các nhà nghiên cứu chú trọng, xuất phát từ đặc

điểm tâm sinh lý, nhận thức…của người CTN phạm tội và chính sách chăm sóc, bảo

vệ trẻ em của mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế. Các công trình nghiên cứu

về vấn đề này có thể khái quát như sau:

Trước hết là các công trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham

khảo, giáo trình, bình luận khoa học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến

cung cấp những tri thức lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài luận án, cụ thể như:

- A guide to juvenile court law của tác giả Gilbert H.F.Mumford, nội dung

chủ yếu đề cập đến khái niệm người CTN và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự

(TNHS) là từ 14 đến 17 tuổi. Để đưa ra khái niệm này, tác giả đã dựa vào định

nghĩa của The Children and Young Persons Act của những năm 1933 và 1938. Bên

cạnh đó, tác giả còn đề cập đến phiên tòa xét xử người CTN phạm luật sẽ được tiến

hành theo các hình thức như đưa ra xét xử giản đơn như một cuộc thảo luận (chỉ có

một thẩm phán tham gia) hay xét xử tại Tòa án với sự có mặt của Bồi thẩm đoàn.

Thành phần xét xử sẽ gồm 3 thẩm phán và trong đó ít nhất phải có một người là nữ

giới.

- Law of Juvenile Delinquency của tác giả Frederick B. Sussmann, A.B.,

M.S. in Ed., LL.B xuất bản năm 1968 tại New York đề cập đến quy trình, thủ tục

điều tra và xét xử đối với người CTN phạm tội. Tuy nhiên, nhóm tác giả này chỉ

mới nêu được khái quát các thủ tục TTHS đối với VAHS sự tham gia của người

CTN phạm tội mà chưa chỉ ra được quy trình, thủ tục điều tra sẽ bắt đầu như thế

nào...

9

- Human rights in the English criminal trial – Human rights in criminal

procedure, Editor John M. Andrew, United Kingdom National Committee of

Comparative Law, 1982. (K. W. Lidstone, Quyền con người trong các phiên tòa

hình sự ở Anh – Tạp chí Quyền con người trong TTHS, Biên tập John M. Andrew,

Ủy ban Quốc gia về Luật so sánh của Anh quốc, năm 1982). Nội dung chủ yếu phân

tích về những yêu cầu nhằm đảm bảo những quyền cơ bản của con người trong một

phiên tòa hình sự tại Anh quốc như có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn; quyền có

một Bồi thẩm đoàn công tâm (không thiên vị); quyền có một phiên tòa công bằng

và thẩm phán không thiên vị; tự do báo chí tại phiên tòa; quyền được hưởng sự trợ

giúp pháp lý (TGPL); quyền tranh luận và có người đại diện; bị cáo phải được cho

là không có tội trước khi bản án được phán quyết; quyền được giữ im lặng; quyền

được kiểm tra và kiểm tra chéo đối với nhân chứng; quyền kiểm tra chứng cứ và các

lời cáo buộc… Ngoài ra, tác giả đã tập trung phân tích vào hai quá trình then chốt là

“thẩm vấn/ tra hỏi” (inquisitorial procedures) và “truy tố/ tố tụng” (accusatorial

procedures). Và tác giả cho rằng cả hai quá trình này đều phụ thuộc vào yếu tố

người THTT và kết luận nếu như không đảm bảo được “quyền” (quyền giữ im lặng,

quyền nhờ NBC, quyền đưa ra yêu cầu…) cho người phạm tội thì QCN sẽ không

được đảm bảo. Để làm rõ QBC của người phạm tội, tác giả sử dụng phương pháp so

sánh quyền này giữa các nước Tây Âu: Vương quốc Anh (Anh Quốc, Cộng Hòa

Ireland, Wales, Scotland), Tây Đức, Pháp…Tóm lại, tác giả đã phân tích về mặt kỹ

thuật pháp lý các quyền của những người tham gia phiên tòa hình sự đặc biệt là

quyền của bị cáo.

- The guarantees for accused persons under Article 6 of the European

Convention on Human Rights tạm dịch Đảm bảo quyền cho người bị buộc tội theo

Điều 6 Công ước châu Âu về nhân quyền của tác giả Stephanos Stavros, NXB

Sweet & Maxwell, Anh quốc, năm 1993. Công ước châu Âu về nhân quyền, tên

chính thức là Công ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản (Convention

for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms). Điều 6 đưa

10

ra quyền được xét xử công bằng cách chi tiết, trong đó có quyền được xét xử công

khai trước một tòa án độc lập và không thiên vị trong thời gian hợp lý, quyền được

coi là vô tội khi chưa có phán quyết của tòa án, và các quyền tối thiểu khác đối với

những người bị cáo buộc một tội hình sự (đủ thời gian và các điều kiện để chuẩn bị

việc biện hộ bảo vệ họ, tiếp cận với đại diện pháp luật, quyền thẩm vấn các nhân

chứng chống lại họ, quyền được có thông dịch viên miễn phí). Công trình phân tích

một cách đầy đủ về các vụ án cụ thể tại các quốc gia thành viên EU và sử dụng

phép so sánh giữa những vụ án được xét xử theo Công ước châu Âu về nhân quyền

với những phán quyết được dựa trên sự áp dụng của các quốc gia thành viên. Tác

giả đã kết luận rằng Điều 6 đã được hiểu và vận dụng vào trong các luật quốc gia

theo cách khác hoàn toàn với những chuẩn mực được quy định trong Công ước.

Vấn đề là các quốc gia thành viên hiểu, vận dụng thế nào về những quy định của

Công ước phù hợp với truyền thống lập pháp của quốc gia mình.

- Criminal process and human rights của tập thể tác giả là các giáo sư, phó

giáo sư của các Trường Đại học Luật tại Melbourne: Jeremy Gans, Terese Henning,

Jill Hunter và Kate Wamer, NXB New South Wales, Australia, 2011. Nội dung bàn

về vấn đề thực thi QCN tại Australia đặc biệt là trong quá trình TTHS phải đảm bảo

các quyền tự do của con người trong bắt giữ, giam giữ, xét xử; quyền được giữ im

lặng; quyền được xét xử một cách công bằng.

- The Criminal Law Handbook của tác giả Paul Bergman & Sara J.Berman￾Barrett, NXB Nolo năm 2003. Được xem như là một quyển sổ tay về Luật hình sự

với các nội dung chủ yếu như hệ thống hoạt động và lý do tại sao cảnh sát, luật sư

và thẩm phán làm những gì họ làm, bao gồm: bắt giữ, phí bảo lãnh, tìm kiếm và thu

giữ bảo vệ bằng chứng thử nghiệm…chi phí bào chữa, kết án người CTN.

- Children, Rights and the Law, của tác giả Philip Alston, Stephen Parker và

John A. Seymour, NXB Oxford University Press, The United States of America

năm 1992. Nội dung mà các tác giả đề cập đến là việc áp dụng trong tháng 11 năm

1989, Đại hội đồng Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã

báo trước sự xuất hiện của một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của quyền trẻ

11

em. Tính đến tháng 3 năm 1991 có hơn 75 quốc gia đã phê chuẩn Công ước. Việc

số lượng các quốc gia tham gia vào Công ước và thực hiện Công ước như một đóng

góp chương trình khung và nhằm đánh giá lại những ưu điểm và nhược điểm của

việc tiếp cận các vấn đề phúc lợi của trẻ em và hạnh phúc qua lăng kính của một

cách tiếp cận “quyền”. Mục đích là để có một cái nhìn mới về những vấn đề này và

làm như vậy với tài liệu tham khảo cụ thể cho một hiệp ước quốc tế chắc chắn sẽ

được phê chuẩn bởi một số lượng rất lớn của các nước trong mọi khu vực của thế

giới và sẽ sớm được ràng buộc pháp lý ở nhiều tiểu bang.

- Criminal Law cases, marterials and problems của tác giả David S.

Rudstein, NXB West Group, The United Sates of America năm 2002. Công trình

bao gồm các trường hợp và quy chế từ khu vực pháp lý khác nhau, cũng như những

đoạn trích từ BLHS Model. Ngoài ra, tác giả đã đặt vấn đề chiến lược trong suốt

công trình để học sinh có thể áp dụng pháp luật được quy định trong các trường hợp

và quy chế các tình huống thực tế mới, do đó cho phép họ kiểm tra kiến thức và

củng cố sự hiểu biết của họ về các nguyên tắc pháp lý có liên quan. Mục đích của

công trình gồm hai phần: đầu tiên, để giúp học sinh đạt được một sự hiểu biết về các

nguyên tắc chung của pháp luật hình sự Anh-Mỹ; thứ hai, để hỗ trợ sinh viên phát

triển kỹ năng của họ trong trường hợp phân tích, giải thích theo luật định, tổng hợp

các trường hợp, và giải quyết vấn đề.

- Juvenile Court: An Overview của tác giả Kathleen Michon, JD. Tác giả nêu

lên một số khái niệm về Tòa án Vị thành niên. Mỗi tiểu bang có những Tòa án đặc

biệt, thường được gọi là Tòa án Vị thành niên để xét xử người CTN, những người

đã bị cáo buộc vi phạm một đạo luật hình sự. Thông thường, Tòa án Vị thành niên

vẫn giữ quyền hợp pháp đối với người CTN cho một khoảng thời gian cho đến khi

người CTN trở thành thành niên, hoặc đôi khi thậm chí lâu hơn, nghĩa là thông

thường Tòa án ra quyết định, xử phạt và quyết định đó có hiệu lực cho đến khi vị

thành niên đủ tuổi thành niên. Một người trẻ tuổi phải là một “vị thành niên” theo

luật tiểu bang thì mới được đưa ra xét xử ở Tòa án này. Trong hầu hết các quốc gia,

tuổi tối đa cho người CTN là 18 tuổi. Trong một vài tiểu bang tuổi là 16 hoặc 17, và

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!