Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Qũy tiền tệ thế giới IMF và vai trò của nó trong các cuộc khủng hoảng lớn trên thế giới
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
CHỦ ĐỀ: Qũy tiền tệ thế giới IMF và vai trò của nó trong các cuộc khủng hoảng lớn trên thế giới:
Khủng hoảng tài chính Đông Á (1997), Khủng hoảng kinh tế thế giới (2008), Khủng hoảng nợ
công Châu Âu (2010)
I – TỔNG QUAN VỀ IMF
IMF (International Monetary Fund) là tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng việc
theo dõi tỉ giá hối đoái và cán cân thanh toán đồng thời hỗ trợ kĩ thuật và giúp đõ tài chính khi có yêu
cầu.
1.1 – Lịch sử hình thành
Nguyên nhân hình thành bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tiền tệ 1930
Thời đó, tiền giấy đã được lưu hành nhưng hãy còn trong tình trạng phôi thai. Trị giá giao hoán quốc tế
chưa có giá trị rõ ràng khiến cho sự mua bán, đổi chác còn ở trong khái niệm vật thể (như một đầu máy
xe lửa trị giá bằng 100 tấn cà phê), vì vậy sự giao thương còn rất khó khăn. Người ta đã nghĩ ra
phương cách dùng kim quý (vàng) để bảo trợ cho giá trị tiền tệ nước mình, nhưng chưa đạt được
một quy ước thống nhất thì cuộc đại suy thoái 1930 bùng nổ, vì chỉ có một số quốc gia theo kim bản
vị để quy định giá tiền tệ của mình, còn nhiều nước khác thì không. Việc này đã gây ra nhiều trở ngại
giữa trao đổi hàng hoá của các nước với nhau. Đó là nguyên nhân làm trì trệ sản xuất, cho nên sau
cuộc khủng hoảng xảy ra, các nhà lãnh đạo thế giới muốn đi tìm một biện pháp để thống nhất vấn đề
tiền tệ giao hoán nhưng cũng không mang lại một kết quả nào.
Đến năm 1940, vấn đề lại được mang ra bàn thảo trở lại, theo kế hoạch đề nghị của ông Harry White và
John Kenes. Theo đó, giá trị tiền tệ giao hoán phải được thống nhất và đồng thuận của các quốc
gia. Một tổ chức quốc tế đã được thành lập để quyết định và giám sát việc thực thi về giao hoán này
giữa 2 hay nhiều loại tiền tệ khác nhau. Sau nhiều năm bàn thảo rất khó khăn của giai đoạn đệ nhị thế
chiến, cuối cùng tháng 7/1944 một hội nghị gồm 44 quốc gia (trong đó có cả Liên Xô cũ) diễn ra tại
Bretton Woods, News Hampshire (Mỹ) từ ngày 1 - 22/7/1944 để soạn thảo điều lệ Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF).
Ngày 27/12/1945, điều lệ thành lập IMF đã được 29 nước kí kết. IMF bắt đầu hoạt động từ tháng
5/1946 (số hội viên lúc này chỉ gồm 39 nước). Ngày 1/3/1947, IMF tiến hành cho vay và khoản vay đầu
tiên vào ngày 8/5/1947, được hưởng quy chế cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc. Tổng số vốn lúc
này là 202 tỷ USD
1.2 – Đặc điểm về nguồn vốn và tỉ lệ phiếu bầu
- Nguồn vốn của IMF chủ yếu do các thành viên đóng góp theo cổ phần. Ban đầu, mức cổ phần đóng
góp phụ thuộc vào tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nước đó với xuất nhập khẩu của thế giới.
Sau này thì tỉ lệ vốn góp tương ứng với tốc độ tăng trưởng GDP
- IMF cấp cho mỗi thành viên hạn mức tín dụng, cho phép vay tối đa là 125% của hạn mức tín dụng.
Cho phép rút vốn 4 lần (3 lần đầu là 25%, lần cuối là 50%)
- Số phiếu trong các cơ quan lãnh đạo được phân bổ phù hợp với tỉ lệ góp vốn, vì vậy đa số phiếu tập
trung vào các nước công nghiệp phát triển nhất. Các nước thành viên có cổ phần lớn nhất trong IMF
hiện nay là Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh và Pháp. Đến 31/8/2004, tổng vốn cổ phần của IMF là 311 tỷ
USD, Hoa Kỳ chiếm 18,38% cổ phần, công hoà liên bang Đức chiếm 5,7%, Pháp chiếm 5,1%, Anh
5,1%, Nhật Bản 6,26%....
1.3 – Các mục tiêu của IMF
Thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách nhiệm cung cấp một bộ
máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ quốc tế.
Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế và nhờ đó góp phần
vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế và việc phát triển nguồn lực
sản xuất của tất cả các thành viên, coi đó là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách kinh tế.
Tăng cường ổn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự hoạt động giao dịch ngoại hối
giữa các thành viên và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh.
Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành viên và xoá bỏ các
hạn chế về ngoại hối gây phương hại tới sự tăng trưởng của mậu dịch quốc tế.
Tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ nguồn lực dự trữ của quỹ được
đảm bảo an toàn và tạo cơ hội cho họ sửa chữa mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế.
Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh toán của các nước thành
viên.
Trong hơn 50 năm qua IMF đã khẳng định được vai trò cũng như thực hiện mục tiêu của mình trong
việc duy trì sự ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
diễn ra trên quy mô ngày càng rộng với tốc độ ngày càng nhanh.
1.4 – Mục tiêu hoạt động của IMF
- Mục đích của IMF là hỗ trợ tín dụng cho các nước thành viên để triển khai các dự án phát triển KTXH, khắc phục thâm hụt trong cán cân thanh toán quốc tế, giải quyết những khó khăn tài chính bất
thường xảy ra do ảnh hưởng của thiên thiên nhiên hoặc để ổn định giá những mặt hàng nguyên nhiên
liệu chiến lược và điều chỉnh quan hệ tiền tệ giữa các nước hội viên
- Khi quốc gia nào gặp khó khăn trong vấn đề trả nợ nước ngoài thì IMF đề ra “chương trình điều chỉnh
cơ cấu” bằng cách giảm phát nền kinh tế và giảm chi tiêu của chính phủ nhằm giúp các nước này lấy lại
sự kiểm soát đối với nền kinh tế. Mặc dù có những vấn đề khó khăn với nền kinh tế quốc gia nhưng khi
nền kinh tế được “điều chỉnh” thì mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn. Nhưng trên thực tế chương trình này đòi
hỏi chính phủ nước đi vay phải “thắt lưng buộc bụng” giảm chi tiêu dịch vu, giảm thuế nhập khẩu, giảm
trợ cấp chính phủ. Điều này làm các công ty nước ngoài dễ dàng kiểm soát nền kinh tế nước đi vay.
1.5 – Chức năng và nhiệm vụ của IMF
1.5.1 – Chức năng
IMF có các chức năng cơ bản:
- Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các thành viên;
- Cấp tín dụng cho các thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán;
-Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế của các nước thành viên;
- Tư vấn cho các nước hội viên về chính sách kinh tế vĩ mô;
- Cung cấp trợ giúp kĩ thuật.
Trước 1973, hoạt động của IMF theo dõi việc chấp nhận tính chuyển đổi của các đồng tiền ở các nước,
giám sát hệ thống tỷ giá hối đoái cố định gắn với giá trị của vàng (thực chất là cố định so với USD, còn
USD được chính phủ Mỹ cam kết gắn với vàng ở tỷ lệ 35USD/ounce vàng), cho các nước thành viên
vay ngắn hạn khi họ gặp khó khăn về dự trữ ngoại tệ khiến cho việc giữ tương quan giá giữa các đồng
tiền trở nên khó khăn hoặc khi họ gặp một số khó khăn kinh tế nhất định.
Đầu năm 1973, nhiều nước Châu Âu và Nhật Bản đã tuyên bố thả nổi đồng tiền của họ so với USD. Hệ
thống Bretton Woods chính thức sụp đổ. Sự sụp đổ này làm lung lay vai trò của IMF với tư cách là một
tổ chức giám sát sự trao đổi tiền tệ tự do trong hệ thống tỷ giá cố định.
Sau 1973, hàng năm IMF họp với các nước thành viên phân tích với các nước thành viên thấy tình hình
kinh tế của họ, cảnh báo những vấn đề có thể xảy ra và tư vấn cách giải quyết. Trong thực tế, IMF ngày
càng quan tâm đến cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển.
1.5.2 – Nhiệm vụ
IMF có các nhiệm vụ sau:
- Giải quyết các vấn đề hối đoái giữa các quốc gia hội viên nhằm ổn định mậu dịch quốc tế;
- Tài trợ tín dụng cho các nước nghèo hầu tạo điều kiện cho họ phát triển qua hình thức giúp ngân
khoảng trực tiếp hay hứa trả nợ cho 1 hội viên nào đó.