Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Quốc hội Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn
PREMIUM
Số trang
484
Kích thước
6.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1364

Quốc hội Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

VĂN PHÒNG QUỐC HỘI

QUỐC HỘI

VIỆT NAM

NHỮNG VẤN ĐỀ

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP

HÀ NỘI - 2005

LỜI GIỚI THIỆU

Thiết thực chào mừng Kỷ niệm 60 năm Quốc hội nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946 -2006) và kỷ niệm 5 năm ngày

thành lập Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (2000-2005), dưới sự chỉ đạo

của Văn phòng Quốc hội Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp biên soạn và

xuất bản cuốn sách “Quốc hội Việt Nam – những vấn đề lý luận và

thực tiễn”.

Là diễn đàn về nhà nước, pháp luật và chính sách, Tạp chí Nghiên

cứu Lập pháp đã hướng trọng tâm hoạt động vào nghiên cứu, thông

tin những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động của Quốc hội. 5

năm qua – khoảng thời gian chưa phải là dài đối với một tạp chí khoa

học, nhưng trên các số ra hàng tháng và các số chuyên đề đã có tới

hàng trăm bài, với hàng ngàn trang viết về Quốc hội của các tác giả là

những nhà lãnh đạo Đảng, lãnh đạo Nhà nước, các nhà khoa học, nhà

quản lý, luật gia và những người làm công tác thực tiễn. Có thể tự hào

rằng, đây là kết quả mà không nhiều tạp chí có được. Điều này góp

phần làm nên bản sắc, diện mạo riêng của Tạp chí Nghiên cứu Lập

pháp.

Những bài viết về Quốc hội trên Tạp chí trong 5 năm qua luôn bám

sát quá trình phát triển của Quốc hội Việt Nam, đưa ra nhiều luận

điểm khoa học và bài học thực tiễn, góp phần vào quá trình đổi mới

của Quốc hội, nhất là trong những dịp sửa đổi Hiến pháp năm 1992,

ban hành Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 và các Nghị quyết của

Quốc hội về quy chế hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc

2

hội. Những bài viết này được các đại biểu Quốc hội, các đồng chí

lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học quan tâm và đánh giá

cao. Nhiều vấn đề được nêu trong các bài viết đã đi vào cuộc sống,

được chấp nhận và được hiện thực hóa bằng những mô hình tổ chức

và quy trình hoạt động mới của Quốc hội. Nhiều vấn đề đã và đang

tiếp tục được nghiên cứu để vận dụng vào quá trình xây dựng, hoàn

thiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội.

Ngoài ra, những bài viết này cũng góp phần vào quá trình hoàn

thiện lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và

phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học chính trị - pháp lý.

Vì vậy, việc tập hợp có hệ thống và chọn lọc những bài viết về

Quốc hội đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp trong 5 năm qua

vào cuốn sách Quốc hội Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực

tiễn là một việc làm cần thiết. Cuốn sách sẽ như một công trình khoa

học về Quốc hội Việt Nam. Chúng tôi hy vọng cuốn sách sẽ được các

đồng chí lãnh đạo, các đại biểu Quốc hội, những người làm công tác

thực tiễn cũng như các nhà nghiên cứu, cán bộ giảng dạy và mọi đối

tượng quan tâm đến Quốc hội đón nhận như một tài liệu tham khảo

hữu ích.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

Hà Nội, tháng 12 năm 2005

TS. Bùi Ngọc Thanh

ỦY VIÊN ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

CHỦ NHIỆM VĂN PHÒNG QUỐC HỘI

3

MỤC LỤC

Lời giới thiệu 2

Phần I

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUỐC HỘI

VÀ LỊCH SỬ QUỐC HỘI

Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội ở nước ta

hiện nay 11

Trần Ngọc Đường

Quyền lực của Quốc hội 23

Phạm Văn Hùng

“Quyết” ở Quốc hội 35

Nguyễn Sĩ Dũng

Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc tổ chức và xây dựng Quốc hội thực hiện

quyền lực của nhân dân 39

Phạm Văn Hùng

Bàn về tính đại diện nhân dân của Quốc hội 61

Nguyễn Quang Minh

4

Những bước đổi mới Quốc hội trong lịch sử lập hiến Việt Nam và vấn đề

tăng cường tổ chức, hoạt động của Quốc hội ở nước ta hiện nay 71

Lê Minh Thông

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc tổ chức cơ

quan lập hiến và sự ra đời của Quốc hội đầu tiên ở Việt Nam 93 1

Trần Duy Khang

Đồng chí Nguyễn Văn Linh với đổi mới hoạt động của Quốc hội 118 1

Nguyễn Như Du

Đồng chí Võ Chí Công với đổi mới hoạt động của Quốc hội 125

Nguyễn Như Du

Đổi mới - từ những việc cụ thể 131

Trần Ngọc Vừng

Phần II

ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUỐC HỘI

Đại biểu Quốc hội chuyên trách hay chuyên nghiệp? 136

Nguyễn Sĩ Dũng

Đại biểu Quốc hội chuyên trách: Một số suy nghĩ về tăng cường năng lực

hoạt động 141

Ngô Đức Mạnh

5

Lời hứa trang trọng của đại biểu quốc hội trước nhân dân 150

Nguyễn Vân Bình

Chương trình hành động đại biểu Quốc hội 154

Nguyễn Đình Tập

Một số yếu tố tác động tới hiệu quả hoạt động của Đại biểu Quốc hội 160

Đặng Đình Luyến

Đại biểu Quốc hội với việc sử dụng thông tin tư vấn 168

Vũ Minh Hồng

Quốc hội và Chính phủ - một số luận điểm về tổ chức 175

Ngô Huy Cương

Kiện toàn tổ chức bộ máy quốc hội 187

Trịnh Đức Thảo

Hoàn thiện tổ chức và đổi mới nội dung hoạt động của các cơ quan chuyên

môn của Quốc hội 193

Bùi Ngọc Thanh

Vị trí, vai trò và chức năng của đoàn đại biểu Quốc hội 204

Nguyễn Hoài Nam

Về mô hình cơ quan giúp công tác xây dựng luật, pháp lệnh 216

Nguyễn Văn Thuận

6

Phần III

HOẠT ĐỘNG QUỐC HỘI

Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội 228

Mai Hồng Quỳ

Để tiến tới chuyên nghiệp 240

Nguyễn Đức Lam

Quốc hội khóa X: 5 năm - cái nhìn của những người trong cuộc 257

NCLP

Thủ tục làm việc của Quốc hội: những yêu cầu và nguyên tắc chung 272

Nguyễn Đức Lam

Dân chủ - từ một kỳ họp 287

Khánh Vân

Quốc hội Việt Nam với các diễn đàn nghị viện đa phương 293

Nguyễn Chí Dũng

Đổi mới các công đoạn làm luật và đưa luật vào cuộc sống 303

Nguyễn Văn An

Một số vấn đề về nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội 309

Nguyễn Văn Yểu

Tăng cường hoạt động lập pháp của Quốc hội 320

Nguyễn Đình Quyền

7

Một số suy nghĩ về đổi mới quy trình lập pháp của Quốc hội 332

Ngô Đức Mạnh

Một số vấn đề về sáng kiến lập pháp 343

Ngô Trung Thành

Tăng sự cẩn trọng trong hoạt động lập pháp của Quốc hội 356

Nguyễn Đăng Dung

Thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc giải thích Hiến pháp,

luật, pháp lệnh 363

Hoàng Văn Tú

Trao đổi về quy trình quyết định các vấn đề quan trọngtrong hoạt động của

Quốc hội 378

Nguyễn Quốc Thắng

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, bảo đảm quyền quyết định tài

chính - ngân sách của Quốc hội 383

Đặng Văn Thanh

Quyền giám sát tối cao của Quốc hội và quyền giám sát của các cơ quan

của Quốc hội 391

Trần Ngọc Đường

Về giám sát của quốc hội 408

Nguyễn Thái Phúc

Hoạt động giám sát của quốc hội các nước và ở nước ta 418

Lê Thanh Vân

8

Trao đổi về hoạt động giám sát của Quốc hội 432

Hoàng Duy – Hoàng Minh Hiếu

Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với văn bản pháp luật 442

Bùi Xuân Đức

Giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả sử dụng ngân sách 452

Nguyễn Chí Dũng

Một vài suy nghĩ về hoạt động chất vấn của Quốc hội 467

Trần Tuyết Mai

Hoạt động chất vấn - Nhìn từ thực tế một kỳ họp Quốc hội 473

Nguyên Thành

Bỏ phiếu tín nhiệm - Bàn về thủ tục khả thi 480

Vũ Văn Nhiêm

9

Phần I

LÝ LUẬN CHUNG VỀ

QUỐC HỘI VÀ LỊCH SỬ QUỐC HỘI

10

Phần I

Lý luận chung về Quốc hội và lịch sử Quốc hội

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

ĐỐI VỚI QUỐC HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY∗

PGS, TS. Trần Ngọc Đường **

Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội

Phó Trưởng Ban Công tác lập pháp

của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

1. Đặc trưng cơ bản về sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội

1.1 Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là sự lãnh đạo đối với cơ

quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân

dân

Theo Hiến pháp, Quốc hội có vị trí đặc biệt quan trọng. Vị trí đặc biệt đó

thể hiện sâu sắc hai tính chất sau đây:

- Một là, Quốc hội là cơ quan cao nhất của nhân dân.

- Hai là, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.

Ở nước ta, “tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Như vậy,

nhân dân là chủ thể mang quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, muốn sử dụng

Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 2/2005. **Hiện là Giáo sư, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Phó Trưởng Ban Công tác lập

pháp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Văn

phòng Quốc hội.

11

Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng

đối với Quốc hội ở nước ta hiện nay

quyền lực Nhà nước của mình, nhân dân phải được tổ chức lại dưới hình

thức Nhà nước. Quốc hội chính là cơ quan Nhà nước cao nhất, thông qua

đó nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước của mình. Thông qua Quốc hội, ý

chí của nhân dân trở thành ý chí của Nhà nước thể hiện bằng các đạo luật

mang tính bắt buộc chung. Cũng thông qua Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước,

thành lập Chính phủ, bầu ra Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện

trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các cơ quan này tổ chức và hoạt

động theo chức năng, nhiệm vụ do Hiến pháp quy định, chịu trách nhiệm và

báo cáo công tác trước Quốc hội. Quốc hội giám sát toàn bộ mọi hoạt động

của bộ máy Nhà nước.

Với vị trí đặc biệt nói trên của Quốc hội trong bộ máy Nhà nước ta, đòi

hỏi phương thức lãnh đạo của Đảng phải phù hợp với vị trí đó, bảo đảm

phát huy được vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, cơ quan đại

biểu cao nhất của nhân dân, bảo đảm cho ý chí của Đảng và lòng dân do

Quốc hội đại diện là thống nhất với nhau, Quốc hội mạnh và thực quyền

chính là Đảng mạnh.

1.2 Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là sự lãnh đạo đối với một thể

chế tạo lập nền tảng chính trị - pháp lý cho sự tồn tại và phát triển của

Nhà nước và xã hội ta

Quốc hội nước ta ra đời và tồn tại trước hết là để tạo lập nền tảng chính

trị - pháp lý cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước và xã hội. Nhờ vai trò

này mà toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được xây dựng,

củng cố và hoàn thiện dựa trên nền tảng chính trị - pháp lý vững chắc.

Hơn nửa thế kỷ qua với 11 khóa Quốc hội, ở nước ta đã có bốn bản Hiến

pháp và nhiều đạo luật, pháp lệnh, trong đó có những bộ luật lớn như Bộ

luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân

sự, … làm nền tảng chính trị - pháp lý không những cho tổ chức và hoạt

động của bộ máy Nhà nước mà còn là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và phát

triển các quan hệ kinh tế hiện nay. Chỉ tính riêng Quốc hội các khóa trong

12

Phần I

Lý luận chung về Quốc hội và lịch sử Quốc hội

thời kỳ đổi mới đã thông qua được 93 bộ luật và đạo luật và Uỷ ban thường

vụ Quốc hội thông qua 124 pháp lệnh.

Như vậy, thực tiễn chỉ ra rằng, muốn xây dựng và củng cố vững chắc

nền tảng chính trị - pháp lý của đất nước không thể không ngừng chăm lo

xây dựng và củng cố Quốc hội, phát huy vai trò của Quốc hội trong việc

thực hiện các chức năng lập hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề

trọng đại của đất nước, giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước.

Để giữ vững vai trò đó, đòi hỏi không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo

của Đảng để Quốc hội phát huy được đầy đủ vai trò nói trên.

1.3 Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là sự lãnh đạo đối với một thể

chế vừa là Nhà nước vừa là nhân dân

Khác với các cơ quan nhà nước khác, Quốc hội có hai tư cách: Quốc hội

vừa có tư cách nhân dân vừa có tư cách nhà nước. Với tư cách là nhân dân,

trong quá trình hoạt động của mình, Quốc hội luôn thể hiện ý chí, nguyện

vọng của nhân dân, nói tiếng nói của nhân dân trong mối quan hệ với các

cơ quan Nhà nước khác. Đồng thời, thông qua Quốc hội, nhân dân lại có

điều kiện tham gia trực tiếp một cách rộng rãi, có hiệu lực và có hiệu quả

vào các hoạt động của Nhà nước.

Với tư cách là Nhà nước, Quốc hội chính là nhân dân được thống nhất

lại dưới hình thức Nhà nước, được nhân dân ủy quyền thực hiện quyền lực

Nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan Nhà nước khác và với chính

mình. Vì thế, có thể nói, Quốc hội vừa là nơi thực hiện và thể hiện chế độ

dân chủ đại diện (dân chủ thông qua ủy quyền) và vừa là nơi thể hiện và

thực hiện dân chủ trực tiếp (thông qua Quốc hội, nhân dân thể hiện trực tiếp

ý chí của mình). Sự kết hợp giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, một

mặt được thể hiện và thực hiện thông qua hoạt động của người đại biểu

nhân dân trong và ngoài kỳ họp, mặt khác còn thông qua tính tích cực của

nhân dân trong việc tham gia các hoạt động của Quốc hội. Quốc hội cũng là

nơi để nhân dân lao động “học” và “tập làm” dân chủ. Vì thế, xây dựng và

phát huy vai trò của Quốc hội phải được coi là một quy luật phát triển của

13

Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng

đối với Quốc hội ở nước ta hiện nay

Nhà nước dân chủ. Đúng như V.I.Lênin đã nói, không thể quan niệm một

nền dân chủ mà lại không có cơ quan đại diện1

.

Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng phải phù hợp với

tính nhân dân và tính nhà nước kết tinh trong tổ chức và hoạt động của

Quốc hội, bảo đảm cho hoạt động của Quốc hội thể hiện mạnh mẽ quyền

lực nhà nước thuộc về nhân dân, vừa thể hiện ngày càng sâu sắc nền dân

chủ xã hội chủ nghĩa. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội phù hợp với ý chí

và nguyện vọng của nhân dân chính là nơi nhân dân thừa nhận và đánh giá

sự lãnh đạo của Đảng.

1.4 Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là sự lãnh đạo đối với một tổ

chức thể hiện sinh động hình ảnh “nhân dân thu nhỏ”2

và hiện thân của

sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân được thống nhất lại

dưới hình thức Nhà nước

Sở dĩ Quốc hội kết tinh được những tinh hoa đó, bởi vì từ khi ra đời cho

đến nay, Quốc hội được xây dựng, củng cố và phát triển dựa trên cơ sở xã

hội rất rộng lớn, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp trong cộng đồng nhân

dân và dân tộc Việt Nam.

Với quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và chế độ bầu cử tự do, tiến

bộ, thành phần đại biểu được bầu vào Quốc hội qua các khóa ngày càng thể

hiện chân thực hình ảnh “nhân dân thu nhỏ”. Ngoài đại biểu của các giai

cấp công nhân và nông dân; nhiều nhân sĩ trí thức, nhiều nhà hoạt động tôn

giáo, nhiều người thuộc tầng lớp trên đã được bầu vào Quốc hội. Điều đó

nói lên Quốc hội nước ta không chỉ là cơ quan quyền lực Nhà nước cao

nhất của riêng giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức mà còn là

của cả cộng đồng nhân dân với các giai cấp tầng lớp khác nhau trong xã

hội, thể hiện sâu sắc bản chất nhân dân của Nhà nước ta. Đúng như Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận định: “Đó là một truyền thống quý báu của

1

V.I. Lênin: Tuyển tập, tập 33, tr. 57. 2

Lời nói đầu Hiến pháp năm 1946.

14

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!